Đỗ T. Công
“Chiếm thành dễ, nhưng giữ thành khó. Đảng csVN đã chiếm được đất nước Việt Nam nhưng không bao giờ giữ được lòng dân. Chế độ độc tài Hà nội cai trị dân dựa vào bạo lực. Khi mất đi sức mạnh của trấn áp, chế độ công an trị sẽ bị đổ nhào. Kẻ chơi dao, chết vì dao. Chế độ bạo lực sẽ là nạn nhân của bạo lực. Lịch sữ đã minh chứng như vậy đối với các chế độ độc tài, bạo ngược, cuồng vọng như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Mussolini, Ceausescu, Saddam Hussen..v.v…”
Từ nhiều năm nay, trước thái độ Trung Cộng leo thang, ngang ngược xâm chiếm lãnh thổ. Việt Nam giữ thái độ ngậm bồ hòn. Dù vậy, thời gian gần đây, có dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang từng bước tân trang quân đội. Kinh nghiệm cuộc chiến tranh biên giới 1979, khi Trung Quốc đánh bất ngờ vẫn còn chưa phai nhạt đối với các lãnh tụ cộng sản Hà Nội. Và viễn ảnh của chiến tranh Việt – Trung sẽ xảy ra để giải quyết các mối bất đồng là điều “không thể tránh khỏi”.
Kể từ tháng 4 năm 1999 Hà Nội đã trang bị nhiều hoả tiển Scud của Bắc Hàn với tổng số lên đến cả trăm triệu mỹ kim. Việt Nam cũng đã chi ra 300 triệu mỹ kim để mua hệ thống hoả tiển phòng thủ trên không S300 PMU1 của Nga. Đây là loại hỏa tiển bắn các mục tiêu bay thấp. Hà Nội cũng bày tỏ ý định muốn mua S300 PMU2, một loại hoả tiển phòng không trang bị đầu đạn có định hướng dùng để ngăn chận hoả tiển bắn từ xa, tốc độ S300 PUM2 là 10,000 km một giờ và có thể bắn xa đến 200 km, thay vì chỉ có 150 km như S300 PMU1.
Tháng 3 năm 2001, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố khi có mặt tại Hà Nội “Việt Nam không những phải tái chỉnh trang thiết bị quân sự cũ mà cần mua thêm nhiều trang thiết bị quân sự tối tân của Nga nữa”. Năm 1995 Hà Nội mua sáu chiếc phản lực Sukhoi Su-27 trị giá 150 triệu mỹ kim, đồng thời đặt mua thêm 6 chiếc Su-27 nữa cho năm 1997. Những năm sau đó, Hà Nội liên tiếp mua máy bay Su-30, nhiều hoả tiển, hoả tiển chống tàu chiến Mosquito có khả năng điều khiển bay ở độ thấp, bắn mục tiêu xa 120 kilometer và trang bị thêm 4 trạm kiểm soát sóng radar để phát hiện máy bay “Trung Cộng” xâm nhập.
Cuối tháng 11 năm 2007, Nga chuyển giao 2 tàu tuần tra Molniya có gắn đầu hoả tiển, sau đó trong năm 2007 Nga giúp Việt Nam tự sản xuất thêm 20 chiếc tuần tra loại này. Tất cả những kỷ thuật quốc phòng cho công nghệ chế tạo tàu Molniya đã được Nga chuyển giao cho Việt Nam với phí tổn gần 1 tỷ dollars. Chưa an tâm, Việt Nam bỏ ra thêm 300 triệu mỹ kim để mua lại công nghệ chế tạo hoả tiển Yakhont chống tàu chiến. Năm 2009, Việt Nam đã mua thêm 12 chiếc phản lực loại cực tối tân Su-30MK2 và 6 chiếc tàu ngầm Kilo của Nga, tổng giá tiền gần 2.5 tỷ dollars.
Chưa bằng lòng với các trang thiết bị quân sự của Nga, Việt Nam cũng tìm cách mua thêm các vũ khí hiện đại khác của Ấn Độ. Việt Nam ngõ ý mua hoả tiển Brahmos, có tầm bắn xa 300 km. Nhưng vì đây là loại hoả tiển tối tân nhất của Ấn, bị ràng buộc về thoả thuận không tiết lộ bí mật kỷ thuật, nên Ấn không thể bán cho Hà Nội. Giới chức ngoại giao Ấn tiết lộ, họ nghĩ Ấn có thể bán cho Hà Nội loại hoả tiển có tầm kỷ thuật thấp hơn, đó là loại hoả tiển đối không Prithvi với chức năng không thua gì hoả tiển Brahmos.
Việt nam cũng đang có ý tìm kiếm những vũ khí tối tân khác, trong đó khai dụng “nguyên tử” như một lá chắn trước áp lực và dã tâm của Trung quốc. Trước đây, ông Christopher Hill, trưởng phái đoàn Mỹ đặc trách về “nguyên tử” khi tường trình trước Thượng viện Mỹ về chuyến đi Á châu, nhằm chuẩn bị cho cuộc thương thuyết về nguyên tử với Bắc Hàn. Khi Thượng Viện Mỹ đặt vấn đề liệu Việt Nam có đi theo con đường của Bắc Hàn không? Ông Christopher Hill trả lời một cách tự tin là “Việt Nam chưa có khả năng nghiên cứu về nguyên tử và không có tham vọng sở đắc vũ khí nguyên tử như Bắc Hàn, chúng ta có thể tin điều này”.
Nói vậy chứ không phải vậy, vì liệu Mỹ có thể tin cậy được những lời hứa hẹn của Hà Nội. Quan hệ mật thiết với Bình Nhưỡng, Hà Nội có thể tìm kiếm trợ giúp về mặt kỷ thuật để xây dựng lò “hạt nhân nguyên tử” và điều này đã nằm trong vòng quan tâm của lãnh đạo Hà nội, trước tình trạng láng giềng khổng lồ chực “ăn tươi nuốt sống”. Điều cản trở Việt Nam không phải là Bình Nhưỡng mà chính là Bắc Kinh, vì không đời nào Bắc Kinh cho phép Bình Nhưỡng giúp Việt Nam thủ đắc khả năng phòng ngừa “lá chắn nguyên tử” để chống lại họ. Vì vậy, Việt Nam đã tìm đến Ấn Độ như một nguồn cung cấp kỷ thuật “nguyên tử” sau Bình Nhưỡng.
Năm 2005, khi Trung tướng Nguyễn Thịnh, chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng dẫn đầu phái đoàn quân sự đến thăm Viện Nghiên cứu Quốc phòng Ấn. Tại đây, ông Thịnh đã bày tỏ mong muốn được Ấn Độ giúp Việt Nam kỷ thuật để xây dựng cơ sở chế tạo hoả tiển. Việt Nam cũng muốn mua hoả tiển điểu khiển tối tân Brahmos, có tầm bắn xa 300km của Ấn. Ông Thịnh cho biết, Việt Nam cần hoả tiển có tầm bắn xa để bảo vệ biển Đông và cầm chân hải quân Trung quốc. Hoả tiển Brahmos của Ấn Độ là sản phẩm quân sự chung Nga và Ấn. Brahmos là viết tắt của chữ Brahmaputra, tên một dòng sông Ấn và Moscow. Đây là hoả tiển bay nhanh nhất thế giới ở tốc độ vượt âm thanh. Với kích thước nặng từ 2500kg đến 3000kg tuỳ theo dàn phóng, dài 8.4 m, đường kính 0.6m, Brahmos có thể bắn mục tiêu xa 290km. Điều tiện lợi của hoả tiển này là có thể bắn trên tàu chiến, tàu ngầm, mặt đất và cả máy bay. Đặc biệt, Brahmos có thể tái chỉnh trang để gắn cho các chiến đấu cơ Su-30 và Su-30MK2 của Nga mà Hà Nội đang có.
Mặc dù việc mua bán này sẽ không thuận thảo vì Ấn Độ không thể chuyển giao công nghệ quốc phòng tối tân cho Việt Nam, nhưng Ấn cũng đã tìm cách giúp Việt Nam huấn luyện chuyên viên về tàu ngầm. Ấn cấp hơn 500 học bổng cho du học sinh Việt Nam và Ấn cũng đang huấn luyện Việt Nam về kỷ thuật nguyên tử chỉ “dùng cho dân sự”. Điều cần lưu tâm là nếu Việt Nam đồng ý cho Ấn sử dụng cảng Cam Ranh, việc chuyển giao kỷ thuật cao của hoả tiển Brahmos và cả công nghệ “hạt nhân nguyên tử” cho Việt Nam, có thể là những vấn đề mà cả Trung Cộng, Hoa Kỳ, Nhật và các nước Đông Nam Á sẽ bị bất ngờ.
Chiến tranh Việt – Trung sẽ phải xảy ra để giải quyết những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận lãnh thổ càng lúc càng bị co cụm và nhục nhã trước tình trạng bị mất đất, mất biển. Đồng thời, dù lãnh đạo đảng CSVN có nhịn nhục, khiếp sợ đến cở nào thì Tàu cũng phải lấn chiếm các vùng biển Đông, vì nhu cầu chiến lược quân sự và tham vọng bá quyền. Hiện nay, Việt Nam đang nhịn nhục, mua thời gian, hiện đại hoá quân đội, chuẩn bị cho giai đoạn thử lửa, đối đầu và phải tự vệ nếu không còn sự chọn lưạ. Trung Cộng với tổng số chi tiêu cho ngân quỹ quốc phòng hàng năm trên 150 tỷ dollars và 2.5 triệu quân chính quy, nửa triệu quân Việt Nam không đủ vai vế để đương cự nếu chiến tranh bùng nổ. (*)
Sau cuộc chiến Việt – Trung 1979, Việt Nam đã bỏ mất cơ hội hiện đại hoá quân đội. Giờ mới bắt đầu thì đã muộn. Phải mất một thời gian dài, tốn nhiều tiền của, công sức, trí tuệ, quan hệ và sự khôn ngoan để Việt Nam đưa quân đội xứng với tầm cở thể kỷ 21. Tuy nhiên, đảng csVN cần hiểu rằng quân đội chỉ có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khi quân đội “hy sinh để bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ đảng”, nhất là đảng csVN đang “phản bội và đi ngược lại quyền lợi” của dân tộc.
Nếu chỉ dựa vào vũ khí quân sự tối tân thì vài chục năm sau Việt Nam cũng không đủ sức đối đầu với Trung Cộng. Hiểm hoạ bị hán hoá trên nhiều lãnh vực, kể cả lãnh thổ là điều khả thi nếu Hà Nội chỉ biết bám vào sức mạnh của quân đội. Từ ngàn xưa, Tàu luôn mạnh hơn Việt Nam nhưng Đại Hán vẫn không thể nuốt nổi An Nam. Chính nhờ vào lòng yêu nước, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng của Vua tôi nước Nam mà Việt Nam còn hiện hữu đến hôm nay. Chiếm thành dễ, nhưng giữ thành khó. Đảng csVN đã chiếm được đất nước Việt Nam nhưng không bao giờ giữ được lòng dân. Chế độ độc tài Hà nội cai trị dân dựa vào bạo lực. Nếu mất đi sức mạnh của trấn áp, chế độ công an trị sẽ bị đổ nhào. Kẻ chơi dao, chết vì dao. Chế độ bạo lực sẽ là nạn nhân của bạo lực. Lịch sữ đã minh chứng như vậy đối với các chế độ độc tài, bạo ngược, cuồng vọng như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Mussolini, Ceausescu, Saddam Hussen..v.v…
Hà nội không thể vận động lòng yêu nước, ý chí quật cường và sức mạnh dân tộc để chống ngoại xâm. Một chế độ độc tài, đảng trị, mất lòng dân, không đủ khả năng bảo vệ Tổ Quốc khi bị ngoại xâm. Cho dù mưu toan thay tên, đổi đảng hay bỏ hẳn mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, để được làm đồng minh của Mỹ, Nhật, Ấn cho thế trận Trung – Việt..v.v…vẫn không thể giải quyết được yếm thế của Hà Nội. Tứ bề thọ địch, ngoại công nội kích, chế độ độc đảng Hà nội khó tồn tại lâu dài trước nhiều áp lực, trừ khi tự nguyện làm tay sai “trâu ngựa” cho ngoại bang. Chỉ một nước Việt Nam Tự do, Dân chủ mới có thể giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ.
Đỗ T. Công
———
(*) Military analysts can make an educated guess, however, and most say that China’s real defense spending is two to four times what is officially stated. Beijing has announced an outlay of 351 billion yuan, or about US$45 billion for 2007, which means the real defense budget could be as high as US$180 billion. (The true about China’s Military)