Năm nay đánh dấu 40 năm cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, diễn ra từ ngày 17/2 đến 13/6/1979. Nhiều người cho rằng cuộc chiến đó là tất yếu; không chỉ vì Trung Quốc cảm thấy bị Liên Xô khép chặt gọng kìm sau khi Việt Nam ký một hiệp ước đồng minh quân sự với Mạc-tư-khoa vào tháng 11/1978 mà còn vì Bắc Kinh phải giải cứu đồng minh Khme đỏ ở Căm Pu Chia sau khi quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh ngày 7/1/1979. Đồng thời Trung Quốc muốn chứng minh họ kiên quyết chống Liên Xô bành trướng trong khu vực để được Mỹ và các nước phương Tây khác hỗ trợ thực hiện “Bốn hiện đại hóa” thông qua đầu tư tư bản và công nghệ.
Thế nhưng, theo quan điểm của tôi, cuộc xâm lược ấy của Trung Quốc đã không xảy ra nếu ban lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất có sự hiểu biết đúng hơn về bản thân và nhất là về Mỹ và bình thường hóa quan hệ với siêu cường này ngay sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Mỹ tiến hành Chiến tranh Việt Nam là nhằm thực hiện Học thuyết Domino, hình thành trên một ý tưởng do Tổng thống Eisenhower đưa ra trong một cuộc họp báo ngày 7/4/1954. Ba tuần trước đó, trận Điện Biên Phủ đã nổ ra và đang diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho quân Pháp. Theo học thuyết này, Đông Dương của Pháp rơi vào tay cộng sản sẽ tạo ra một “hiệu ứng Domino” hay sụp đổ dây chuyền trên toàn Đông Nam Á, đồng nghĩa Miến Điện, Thái Lan, Indonesia cũng sẽ rơi vào tay cộng sản. Các quân Domino tiếp theo sẽ là Nhật Bản, Đài Loan, Philippines rồi Australia, New Zealand. Để ngăn chặn sự sụp đổ dây chuyền này, Mỹ phải can thiệp quân sự.
Năm 1964, Việt Nam Cộng hòa đứng trước nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng) do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc dựng lên và hậu thuẫn. Để giải cứu Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Lyndon Johnson quyết định đưa quân chiến đấu vào Nam Việt Nam. Ngày 8/3/1965, với việc bốn tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, Chiến tranh Việt Nam chính thức bắt đầu. Tuy nhiên chỉ 3 năm sau, nhất là sau cuộc tấn công Tết (tên chính thức là Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968) của các lực lượng cộng sản, chính quyền Johnson, và bản thân Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, người được mệnh danh “Kiến trúc sư trưởng của Chiến tranh Việt Nam”, nhận ra rằng những người cộng sản Việt Nam chiến đấu vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước hơn là vì ý thức hệ. Họ tiến hành một cuộc chiến dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là cuộc chiến cộng sản chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo.
Khi nhận thức được rằng Mỹ không thể thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa dân tộc của người Việt, cuối tháng 2/1968 McNamara từ chức Bộ trưởng quốc phòng. Một tháng sau, Johnson tuyên bố không ra tái cử tổng thống và đề nghị mở đàm phán với Hà Nội để chấm dứt chiến tranh. Nixon sau khi đắc cử tổng thống Mỹ cuối 1968 chỉ cố gắng làm sao để Mỹ rút quân “trong danh dự”, nghĩa là không mang tiếng đột ngột bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa. Nỗ lực này được thể hiện bằng chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” mà nội dung là chuyển trách nhiệm tiến hành chiến tranh cho Việt Nam Cộng hòa. Cuộc triệt thoái quân Mỹ khỏi Nam Việt Nam, mà hệ quả tất yếu là quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ thâu tóm lãnh thổ này, báo hiệu sự kết thúc hoàn toàn Học thuyết Domino; các nhà làm chính sách của Mỹ không còn tin rằng việc Việt Nam Dân chủ Công hòa thâu tóm Nam Việt Nam sẽ dẫn đến cộng sản hóa toàn bộ Đông Nam Á. Tóm lại, sự thù địch của chính quyền Mỹ đối với những người cộng sản Việt Nam với tư cách kẻ thù ý thức hệ đến đây chấm dứt.
Nhận thức của chính quyền Mỹ theo đó cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam không phải là cuộc chiến ủy nhiệm của chủ nghĩa cộng sản được củng cố bởi xung đột Xô – Trung mà đỉnh cao là các trận đánh đẫm máu ở biên giới giữa hai nước trong năm 1969. Hơn thế nữa, chính quyền Nixon thấy xung đột giữa hai cường quốc cộng sản là cơ hội tốt để Mỹ thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”. Các cuộc đàm phán do Mỹ chủ động tiến hành với Trung Quốc và tiếp đó với Liên Xô vào nửa đầu năm 1972 nhằm mục tiêu này đã thành công. Cả Trung Quốc lẫn Liên Xô đều ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận chính quyền Việt Nam Cộng hòa thay vì thành lập chính phủ liên hiệp ở miền Nam Việt Nam. Báo chí Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa thời kỳ đó nhấn mạnh rằng thời đại các nước lớn áp đặt ý muốn cho các nước nhỏ đã qua rồi.
Do không còn coi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thù địch nên chỉ một năm sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, chính quyền Mỹ đã chấp nhận đề nghị bình thường hóa quan hệ từ ban lãnh đạo Việt Nam. Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho đối thoại giữa hai nước. Ngày hôm sau, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tổng thống Mỹ tiếp theo, Jimmy Carter, còn mong muốn việc bình thường hóa này như là một phần của quá trình hàn gắn vết thương cho nước Mỹ. Khác với người tiền nhiệm, khi gửi một phái đoàn sang Hà nội vào tháng 3/1977 để thực hiện mục tiêu này, Carter chỉ thị không đặt vấn đề tìm kiếm tù nhân và lính Mỹ mất tích trong chiến tranh làm điều kiện tiên quyết.
Ngược lại với realpolitik – chính sách cầu thị của chính quyền Mỹ, ban lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất say men chiến thắng. Họ đòi Mỹ phải trả 3,25 tỷ đô-la để tái thiết Bắc Việt Nam sau chiến tranh, lập luận rằng Tổng thống Nixon đã cam kết điều này trong Công hàm ngày 1/2/1973 gửi Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên, cam kết này được đưa ra trong khuôn khổ Điều 21 của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Hiệp định này mặc nhiên không còn giá trị khi Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm Dinh Độc Lập, xóa sổ Việt Nam Cộng hòa, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975. Vì lẽ đó, Mỹ đã từ chối yêu cầu này của ban lãnh đạo Việt Nam và quan hệ giữa hai nước vì thế đã không được bình thường hóa.
Mặc dầu vậy, tôi cho rằng nếu quan hệ Việt – Mỹ được bình thường hóa vào năm 1977 thì Trung Quốc đã không xâm lược Việt Nam năm 1979.
Sau Chiến tranh Việt Nam, mục tiêu chính của Việt Nam là phục hồi kinh tế. Bình thường hóa quan hệ với Mỹ sẽ chấm dứt cấm vận kinh tế của Mỹ và chắc chắn sẽ giúp phục hồi kinh tế miền Bắc cũng như phát triển kinh tế miền Nam; giả thuyết này đã được chứng minh là đúng đắn với nền kinh tế Việt Nam phát đạt sau khi Mỹ bỏ cấm vận kinh tế vào năm 1994. Với một kịch bản như vậy, Việt Nam chắc chắn sẽ không phải phụ thuộc vào viện trợ của Liên Xô để tái thiết đất nước.
Do kịch bản nói trên đã không xảy ra nên Việt Nam buộc phải tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô lãnh đạo vào tháng 6/1978 và ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô trong đó hai bên cam kết “làm hết sức mình để củng cố hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” vào tháng 11/1978. Chính những động thái “Xô viết hóa” này của Việt Nam đã dẫn tới việc Mỹ cấp tốc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, điều đã xảy ra vào ngày 1/1/1979, để tạo lập một liên minh không chính thức chống Liên Xô và “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”. Trước khi qua đời vào năm 1976, lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông chẳng những chống Liên Xô mà còn phủ nhận “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” khi đưa ra “Thuyết ba thế giới” (Thế giới thứ nhất gồm các siêu cường, cụ thể là Mỹ và Liên Xô. Thế giới thứ hai gồm các cường quốc phát triển. Thế giới thứ ba gồm các nước bị bóc lột ở châu Phi, Mỹ la tinh và nhất là ở châu Á).
Chính trên căn bản chống Liên Xô và “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” mà Đặng Tiểu Bình đã đi Mỹ vào cuối tháng 1/1979 để bàn việc Trung Quốc đánh Việt Nam. Tại cuộc bàn thảo này, Đặng nói rõ là Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam để chống lại bành trướng của Liên Xô trong khu vực. Chính thức thì Carter viết một bức thư cho Đặng Tiểu Bình khuyên Trung Quốc không nên đánh Việt Nam. Trên thực tế thì Mỹ ủng hộ Trung Quốc xâm lược Việt Nam khi cung cấp thông tin tình báo vệ tinh về hoạt động của quân đội Liên Xô dọc biên giới Xô – Trung. Sau khi chiến sự diễn ra, Zbigniew Brzezinski, Cố vấn an ninh quốc gia của Carter, mỗi buỗi chiều gặp đại sứ Trung Quốc Sài Trạch Dân để chuyển giao các thông tinh tình báo này. Tại một hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 3/1979, Đặng Tiểu Bình nói rằng Mỹ đã thông báo cho ông ta rằng không có sư đoàn nào trong số 54 sư đoàn Liên Xô đóng dọc theo biên giới Trung-Xô được trang bị đầy đủ. Thông tin tình báo này rõ ràng đã làm Trung Quốc quyết tâm thực hiện kế hoạch xâm lược Việt Nam mà không sợ Liên Xô trả đũa quân sự.
Cũng như vậy, Trung Quốc đã không dám tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn chống Việt Nam nếu quan hệ Việt – Mỹ đã được bình thường hóa. Thực vậy, Mỹ luôn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, kể cả trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Điều này có nghĩa Học thuyết Domino sớm hay muộn sẽ được phục hồi với nội dung mới là ngăn chặn Trung Quốc thâu tóm Đông Nam Á. Với tâm thức đó, Mỹ chắc chắn sẽ phản đối Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh như vậy chống lại một nước có quan hệ ngoại giao với Mỹ, điều này tất làm chậm tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước mà Trung Quốc coi là cốt tử cho chương trình hiện đại hóa của họ. Nói cách khác, Trung Quốc sẽ không dại gì đánh đổi tương lai của bản thân để lấy sự tồn tại của Khme Đỏ, nhất là trong bối cảnh Khme Đỏ bị toàn thế giới lên án mạnh mẽ do thực hiện chính sách diệt chủng, một chính sách đã dẫn tới cái chết của 1,5 đến 3 triệu người, khoảng 25% dân số Căm Pu Chia.
Bài học rút ra là một quan hệ ngoại giao và một quan hệ đồng minh quân sự thiết lập với Hoa Kỳ đã có thể giúp Việt Nam tránh được cuộc xâm lược năm 1979 – và ngăn chặn mọi cuộc xâm lược trong tương lai được phát động bởi một Trung Quốc không ngừng bành trướng lãnh thổ.
Cù Huy Hà Vũ có bằng Tiến sĩ Luật của Đại học Panthéon – Sorbonne, Pháp. Trước khi trở thành nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị, ông là quan chức Bộ ngoại giao Việt Nam.