Wednesday, February 19, 2025
HomeBIỂN ĐÔNGLại nói về “giá trị” của các bản đồ.

Lại nói về “giá trị” của các bản đồ.

Nhân Tuấn Trương

Hôm qua BBC có bài phỏng vấn học giả Biển Đông là ông Hoàng Việt. Bài phỏng vấn giật tít “Tranh chấp Biển Đông: Bản đồ có giá trị giới hạn”.

Thì cuối cùng BBC (cũng như các học giả VN) phải nhìn nhận “chân lý” về “giá trị” của các bản đồ. Những gì tôi viết về “giá trị pháp lý” của bản đồ từ chục năm nay xem ra cũng có chút “ép phê”. Ban biên tập BBC và các “học giả” VN đã thay đổi nhận thức của mình (về giá trị các bản đồ). Chớ theo tôi biết, nào giờ các học giả VN chỉ chuyên tâm nghiên cứu về “bản đồ cổ” để chứng minh “chủ quyền” của VN ở Hoàng Sa và Trường Sa. Các bài “nghiên cứu” của nhóm học giả thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông (mà ông Hoàng Việt là một thành viên) là thí dụ điển hình.

Tuy nhiên ý kiến của ông Hoàng Việt ở đây (cho trường hợp Biển Đông) lại có điều không ổn. Khi cho rằng “bản đồ có giá trị hạn chế” là không nói lên điều gì chính xác. “Giá trị” ở đây là “giá trị” về cái gì ? trên phương diện nào ?

Luật cũng như tập quán quốc tế không nhìn nhận bản đồ có “giá trị” như một “bằng chứng” nhằm chứng minh chủ quyền một lãnh thổ thuộc nước này, hay thuộc nước kia. Tức trên phương diện pháp lý, “bằng chứng chủ quyền”, bản đồ “không có giá trị” chi cả, chớ không phải là “có giá trị hạn chế”.

Một số bản đồ cổ do Trung Hoa xuất bản không in các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này không phải là “bằng chứng” để kết luận rằng TQ không có chủ quyền ở HS và TS.
Cũng không phải các bản đồ mới in, do kỹ thuật tinh vi hơn, thì có một “giá trị pháp lý cao hơn” như ý kiến của ông Hoàng Việt.

Các bản đồ của Mỹ, Pháp, Anh… xuất bản sau này, phần nhiều vẽ thiếu những “lãnh thổ hải ngoại”. Lãnh thổ của Anh và Pháp, nếu vẽ cho đầy đủ (cũng như tôn trọng tỉ lệ xích bản đồ), thì trải rộng ra. Vì “trở ngại kỹ thuật” nên các bản đồ này vẽ “thiếu sót”. Không phải vì sự thiếu sót này mà chủ quyền của các nước tại các lãnh thổ hải ngoại của họ bị yếu đi.

Trong khi ở một số phương diện, như để khẳng định một học thuyết Luật nào đó (như Acquiescement – về sự Đồng thuận), thì bản đồ có giá trị “vô giới hạn”.

Tập quán quốc tế nhìn nhận các bản đồ có giá trị như một “thông tin” (information), hướng dẫn nhằm làm sáng tỏ “thái độ” của một quốc gia đối với một vấn đề mà quốc gia này có liên quan.

Các án lệ của các Tòa quốc tế về các vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, “thái độ” của quốc gia (đối với vùng lãnh thổ đó) luôn là yếu tố quyết định để Tòa ra phán quyết.

Trường hợp hai miền Nam và Bắc Việt Nam tức VNCH và VNDCCH, lập trường về lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa của hai bên thật là “đối nghịch”. Phía VNCH cố gắng khẳng định chủ quyền của VN ở HS và TS (kể cả bằng xương máu) thì phía VNDCCH luôn có thái độ “nói ngược lại”.

Công hàm ngày 14 tháng chín năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, Thủ tướng của chính phủ VNDCCH, nhìn nhận “Tuyên bố đơn phương” ngày 4 tháng chín 1958 về hải phận và chủ quyền lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung quốc.

Các học giả VN hôm nay cố gắng giới hạn “giá trị pháp lý” của công hàm này, bằng cách cho rằng nội dung công hàm chỉ nói tới “hải phận 12 hải lý” chớ không nói về chủ quyền HS và TS.
Lý lẽ này gượng ép, bởi vì “Tuyên bố” của TQ có đề cập đến chủ quyền của TQ tại Tây sa và Nam sa tức (HS và TS).

Luật quốc tế có hai quan điểm Luật tương đương “không được nói ngược – Estoppel” (trường phái của Anh và Mỹ) và “sự đồng thuận – Acquiescement” (trường phái của Pháp). Cả hai quan điểm luật học này nhìn nhận thái độ “im lặng” của một quốc gia, trong trường hợp đòi hỏi quốc gia phải có một thái độ rõ rệt, là “sự đồng thuận ám thị” của quốc gia đối với yêu sách của đối phương.

Thái độ “im lặng” của VNDCCH trước tuyên bố về chủ quyền HS và TS của TQ (Tuyên bố đơn phương 1958) được xem là “thái độ đồng thuận ám thị” (acquiescement implicite) nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS..

Các bản đồ do VNDCCH vẽ ra, sau khi Tuyên bố 1958 của TQ, thì có giá trị “không giới hạn”. Các bản đồ này không phải là “bằng chứng” nhằm khẳng định chủ quyền của TQ ở HS và TS. Nhưng chúng được xem là “bằng chứng” nhằm “khẳng định thái độ” của VNDCCH về chủ quyền của TQ tại HS và TS.

Ta có thể liệt kê các bản đồ :

Bản đồ Thế giới do Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1969 vẽ hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (bằng tiếng Hoa) đồng thời chú thích hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.

Tập bản đồ thế giới in năm 1972 của Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng vẽ hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Hoa.

Sách giáo khoa địa lý lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục năm 1974 có đoạn viết: “Chuỗi quần đảo từ Quần đảo Nam sa và Tây Sa đến Đảo Hải Nam, Đảo Đài Loan, Quần đảo Bành Hồ và Quần đảo Chu San… hình dạng như cây cung và tạo thành một Vạn Lý Tường Thành bảo vệ đại lục Trung Quốc.”

Các bản đồ ở đây là “bằng chứng”, làm rõ rệt “thái độ” của VNDCCH về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trở lại vấn đề “kiện tụng”. Từ lâu tôi có nói rằng VN hôm nay kiện TQ là “kiện để thua”. Khi mà nhà nước CSVN hôm nay không làm các thủ tục để “kế thừa” di sản của VNCH thì mọi cuộc kiện tụng về chủ quyền của VN tại HS và TS đều không có hy vọng nào để thắng.

(Trong khi Nhà nước bảo hộ Pháp ngày xưa đã hai lần thách thức TQ giải quyết tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa bằng trọng tài. Hai lần TQ đều từ chối.)

Nhà nước CSVN – cũng như giàn “học giả” của họ – chắc chắn đã biết lý thuyết luật học “không được nói ngược – Estoppel”. Mọi hồ sơ của VN kiện TQ (về chủ quyền HS và TS) sẽ bị “bác” từ đầu.

Nhà nước CHXHCNVN hôm nay là nhà nước “tiếp nối” nhà nước VNDCCH. Nhà nước VN hôm nay không thể “nói ngược” với lập trường của nhà nước tiền thân VNDCCH trước kia.

Nhà nước VN hôm nay chỉ có thể kiện TQ (về vấn đề chủ quyền) khi việc “kế thừa” danh nghĩa VNCH được thể hiện (một cách thuyết phục).

(Dầu vậy VN có thể kiện TQ về các tranh chấp sinh ra từ các quan điểm đối nghịch với TQ về vùng biển kinh tế độc quyền hay về “biển lịch sử”).

Quan điểm của đảng CSVN thật là rõ rệt: thà mất nước chớ không để mất đảng.

Quan điểm của các “học giả” VN cũng đều đi theo chiều hướng đó. Họ cố gắng “vô hiệu hóa” hiệu lực công hàm 1958 bằng nhiều cách, kể cả cách cho rằng “công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là tài liệu tuyên truyền của TQ”. Cũng có lập luận cho rằng đề cập tới công hàm 1958 là “làm lợi cho TQ”.

Tất cả chỉ có một mục tiêu duy nhứt: bảo vệ (thanh danh cho) đảng.

Về ý kiến của nhà báo (rất tài hoa) Bill Hayton trong bài viết trên BBC tựa đề “Tuyên bố chủ quyền của TQ ở Trường Sa đến từ lỗi dịch thuật” đăng ngày 9 tháng tư 2018. Tôi cho rằng nội dung bài viết này có giá trị đặc biệt, đóng góp rất tích cực vào các mặt pháp lý và học thuật. Điều này khác với ý kiến của ông Hoàng Việt.

Một hồ sơ “chủ quyền lãnh thổ” được đặt trên nền tảng “dối trá” là không thể đứng vững trên mặt trận pháp lý.

Khác với Bill Hayton, ý kiến của tôi cho rằng, cốt lõi của toàn bộ hồ sơ pháp lý chủ quyền của TQ tại HS và TS (và vùng biển chữ U) được đặt nền tảng trên “thái độ” của nhà nước VNDCCH. Nhà nước VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS (và vùng nước chung quanh).

Tiếp tục như hiện nay, VN sẽ mất thêm TS và vùng biển theo bản đồ chữ U.

Nhưng vẫn còn có thể “cứu vãn”, nếu nhà nước CHXHCNVN tuyên bố trước quốc tế “kế thừa” danh nghĩa VNCH, thông qua việc tuân thủ những điều ước của hiệp định Paris 1973. Trong đó gồm các việc “hòa giải dân tộc” và “tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc miền Nam”.

Việc này xảy ra hiển nhiên trụ cột hồ sơ của TQ sẽ sụp đổ.

Nhưng đã nói: thà mất nước chớ không để mất đảng.

Những dữ kiện của nhà báo Bill Hayton công bố gần đây cũng có giá trị hết sức quan trọng. Nhà nước CSVN quanh năm bưng bít thông tin về Biển Đông. Nếu không có Bill Hayton thì nhúm người VN thật lòng nghiên cứu về chủ quyền biển đảo VN cũng như người mù. Ta làm sao biết uẩn khúc vụ Repsol rút giàn khoan ở các lô 7-03 hay lô Cá Rồng đỏ? Học giả VN nhiều người biết các uẩn khúc này, họ cũng thường lên BBC trả lời phỏng vấn nhưng ai cũng lấp liếm. Không ai dám nói ra sự thật như B. Hayton.

Nhà nước VN buộc Repsol rút hay Repsol tự nguyện rút ? Hai việc này tuy “như nhau” nhưng tác hại về phương diện pháp lý rất là khác nhau. Repsol tự nguyện rút lui thì “vô hại” nhưng VN buộc rút là VN “nhìn nhận lý lẽ của TQ là chính đáng”.

Một số học giả Mỹ vừa biểu lộ ý kiến trên báo chí rằng từ nay không có tập đoàn dầu khí nào dám khai thác ở thềm lục địa VN nữa. Đây cũng là điều hợp lý, phản ảnh những gì đã xảy ra trên thực tế.

RELATED ARTICLES

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular