6-3-2018
Khi nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào Đà Nẵng tháng Ba, 2018, tôi tự hỏi: tại sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại sao lại tháng Ba?
Nhìn lại lịch sử thì ta thấy cái địa danh Đà Nẵng hay gắn liền với những bước ngoặt của chiến lược Mỹ tại Biển Đông.
Mà kể cũng lạ, những bước ngoặt ấy lại có một sự trùng hợp: đó là nó thường hay xảy ra vào tháng Ba:
- Tháng Ba, 1965 sau bao nhiêu thẩm định, cân nhắc, Washington đi tới quyết định đưa quân tác chiến vào Việt Nam. Đà Nẵng được chọn làm nơi để bắt đầu. Quyết định này phản ảnh một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ chiến tranh du kích, chống nổi dậy tới chiến tranh quy ước.
- Tháng Ba, 1973: sau Hiệp định Paris, lễ chính thức hạ cờ Mỹ để kết thúc vai trò của quân đội tác chiến tại Việt Nam lại được tổ chức tại sân bay Đà Nẵng.
- Tháng Ba, 1975: Tòa Lãnh Sự Mỹ – bộ phận dân sự còn lại của Mỹ – đóng cửa hoàn toàn và rút đi trên con tầu cuối cùng rời cảng Đà Nẵng.
Bây giờ – tháng Ba, 2018 – siêu hàng không mẫu hạm cập cảng Đà Nẵng. Liệu nó có đánh dấu một bước ngoặt khác hay không?
Trước hết ta nhìn lại những mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ tới chiến lược của Mỹ:
Tháng Ba, 1965: đổ bộ Đà Nẵng
Sau khi TT John F. Kennedy bị sát hại vào tháng 11, 1963, Phó TT Lyndon B. Johnson lên kế vị. Tuy có lập trường cứng rắn về Việt Nam, ông cố gắng kìm hãm, không leo thang cuộc chiến vì đã đặt ra mục tiêu ưu tiên cho chính quyền ông là War on Poverty– chiến đấu để khắc phục sự nghèo khó của lớp người thiểu số ở Mỹ.
Cuối năm 1964, dù sau khi đã đại thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên ông nên có hành động mạnh ở Việt Nam nhưng ông vẫn tiếp tục tự chế.
Nhưng rồi biến cố Pleiku đã thay đổi hẳn lập trường của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố vấn Mỹ tại Pleiku và căn cứ trực thăng Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào lúc 2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đã gây nên thiệt hại lớn : trong số 137 quân nhân Mỹ ở căn cứ này thì 9 người bị tử thương và 76 người bị trọng thương. Những tổn thất về thiết bị cũng rất nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay các loại khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó.
Nó đã đưa tới một quyết định mau lẹ của Tổng thống Johnson để trả đũa. Ông nhóm họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói:
“Tôi đã gác khẩu súng ở phía trên lò sưởi và cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu rồi, nhưng địch quân đang giết hại người của ta… Hèn nhát đã đưa chúng ta vào nhiều cuộc chiến hơn là trả đũa: nếu như Hoa kỳ đã mạnh dạn hơn ngay từ đầu thì đã tránh được Thế Chiến I và II.”
Sau đó ông cho khởi động chiến dịch Rolling Thunder: từng lớp máy bay khu trục bay xuyên qua những đám mây dầy đặc tới oanh tạc các doanh trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40 dặm về phía bắc tại Đồng Hới. Việc trả đũa này đã bắt đầu một chiến dịch oanh tạc kéo dài với Linebacker I và Linebacker II.
Đưa nhiều máy bay oanh tạc vào tham gia cuộc chiến thì phải bảo vệ phi trường Đà Nẵng và khu vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo kích như ở Pleiku. Vì vậy Washington tính đến việc mang quân vào để đáp ứng.
Nhưng nếu mang quân tác chiến vào thì vi phạm Hiệp định Geneve và có khả năng là chiến tranh sẽ leo thang.
Bàn đi bàn lại thật kỹ nhưng rồi Washington đi tới kết luận phải chấp nhận mọi rủi ro.
Ngày 23 tháng 2 năm 1965, tại Sài Gòn, Tướng Westmoreland đề nghị với Tư lệnh Thái Bình Dương và Bộ Tổng Tham Mưu:
“Đưa một Lữ đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB (Marine Expeditianory Brigade) để giữ an ninh cho Đà Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào sự đồng ý của thượng cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một đội Tiểu Đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion Landing Team) vào Đà Nẵng ngay.”
Ngày 26 tháng 2 năm 1965, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại Việt Nam:
“Thượng cấp đã có quyết định tiến hành đổ bộ cùng một lúc một đơn vị MEB, một đơn vị BLT, và một phi đội trực thăng… rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều trong Khu vực Đà Nẵng …”
Ngày 8 tháng Ba, bốn con tầu USS Henrico, Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn 3,500 TQLC vào đổ bộ ở bãi biển “Red Beach.”
Hành động này là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích, chống nổi dậy (counterinsurgency) tới chiến lược đem đại quân tác chiến (combat troops), tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.
Lữ đoàn TQLC Viễn chinh Số 9 đã là đội tiền phong dẫn đường cho trên một nửa triệu quân nhân Mỹ vào Việt Nam.
Tháng Ba, 1973: rút khỏi Đà Nẵng
Theo Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1, 1973 thì Mỹ phải đơn phương rút khỏi Miền Nam.
Điều 5 quy định: “Nội trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội… phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam…” Vì Hiệp định được ký ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27 tháng Ba là hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm ấy thì một số quân đội Mỹ còn đóng ở Đà Nẵng.
Điều 6 của Hiệp định quy định thêm: “ Các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Một, phải được giải tỏa trong hạn 60 ngày, sau khi Hiệp định được ký kết.” Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đã được chọn để tổ chức một nghi lễ biểu tượng quan trọng: lễ hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu việc chấm dứt sự có mặt của quân đội tác chiếnMỹ tại Miền Nam.
Lễ nghi được diễn ra rất trang trọng với sự hiện diện của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Việc “Cuốn Cờ” (Flag Folding) đã theo đúng thủ tục gồm năm bước, bắt đầu bằng việc trải lá cờ ra cho thật thẳng và gấp lại theo chiều dài lần thứ nhất (độc giả vào mạng xem để tìm hiểu thủ tục cầu kỳ và đầy ý nghĩa này).
Tháng Ba, 1975: Lãnh sự cuối cùng rời Đà Nẵng
Tuần lễ cuối tháng Ba, sau khi có tới gần một triệu người dân từ Huế, Quảng Trị và vùng lân cận di tản đổ dồn và tràn đầy Đà Nẵng, thành phố này bị tràn ngập và hỗn loạn trước sự tiến quân của quân đội Bắc Việt. Tình hình an ninh trở nên tuyệt vọng.
Mỹ điều động hai con tầu Pioneer Contender và Miller tới hải cảng Đà Nẵng để giúp di tản những nhân viên Mỹ làm ở Tòa Lãnh sự với hàng trăm ngàn người Việt. Ngoài số tầu biển còn có chiếc máy bay Boeing 727 của hãng hàng không Air America đã hạ rồi cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.
Sau cùng thì viên lãnh sự Mỹ, ông Al Francis đã ra đi bằng đường biển.
Sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam đến đây đã chấm dứt hoàn toàn.
Tháng Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng
Mỹ đi rồi Mỹ lại về… vào Đà Nẵng?
Lich sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào?
Ta có thể tạm thời nhận xét như sau:
Thứ nhất, về chiến lược ở Biển Đông: Mỹ đang xúc tiến cho thật nhanh diễn tiến ‘Xoay Trục.’ Như chúng tôi đã đề cập trong cuốn ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’: hoàn cảnh lịch sử hiện nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn cảnh trong những thập niên 60 và 70. Trong hai thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là “ngăn chận Trung Quốc,” còn bây giờ là phải “trực diện đối đầu với Trung Quốc.”
Từ khi Mỹ rút khỏi Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam Việt Nam trong việc bảo vệ Hoàng Sa chống Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, TQ hết bị ngăn chận nên đã thực sự tràn xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn vẹn khu vực này, tiến trình theo đúng như thuyết Đôminô.
Nhưng Xoay Trục khó có thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có sự cộng tác của Việt Nam, vì đây là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Bộ Quốc Phòng Mỹ đã xác định ngay từ đầu thập niên 50 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ Chương 2).
Vì vậy Mỹ muốn thúc đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn đối với Việt Nam.
Thông cáo chung về chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng 11, 2017 xác định hai điểm:
- Hai bên “khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ trong giai đoạn 2018-2020.” Ta thấy giai đoạn 2018-2020 là trùng hợp với khung thời gian Mỹ đặt ra cho mục tiêu hoàn thành bước đầu của chiến lược Xoay Trục khi 60% của hải lực Mỹ sẽ có mặt ở Thái Bình Dương.
- Hai bên “hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới thăm một hải cảng của Việt Nam trong năm 2018.”
Lưu ý độc giả một điểm có ý nghĩa: cho tới nay, chúng tôi thấy tất cả truyền thông quốc tế đều loan tin sai lầm rằng “đây là hàng không mẫu hạm đầu tiên cập bến Việt Nam kể từ năm 1975” hay “kể từ sau cuộc chiến,” hay “kể từ khi chiến tranh kết thúc cách đây hơn 40 năm.”
Không đúng, đây là lần đầu tiên kể từ trước tới nay. Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock, Ticonderoga có tham chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi Luật Tân), Yokosuka (Nhật Bản) hay thả neo ở ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam Ranh). Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu hạm USS Card chở quân trang, quân cụ và thiết bị vào Sài Gòn (và bị đánh bom). Nhưng tầu này nhỏ, thuộc vào loại hộ tống Bogue, cũ kĩ vì sản xuất từ năm 1941.
Đưa nhiều hàng không mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông thì cần phải có cơ sơ hỗ trợ từ đất liền – hải cảng, sân bay, bảo trì, tiếp vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện nghi. Những cơ sở ấy thì thực tế nhất, tiện lợi nhất là vùng duyên hải của Việt Nam – đặc biệt là Cam Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ đã xây cất, xử dụng trong nhiều năm nên đã quá quen thuộc.
Nhưng tại sao Mỹ không đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh nước sâu mà lại đem vào Đà Nẵng? Về phương diện logistic, tầu Carl Vinson quá lớn, khó mà thả neo ở Hải cảng Quốc Tế Cam Ranh.
Lại nữa, có thể vì lý do Thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng trưng cho vai trò của người Mỹ ở Việt Nam trước đây – qua các biến cố như đã đề cập. Ngoài ra, còn có khả năng là sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón USS Carl Vinson, giống như thời xưa (1965) có các thiếu nữ ra bãi biển choàng hoa lên cổ các chiến sĩ thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây nhiều người Việt leo lên chiến hạm Mỹ do hạm trưởng người Mỹ gốc Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón tiếp.
Và như vậy là để nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc thăm viếng hữu nghị này?
Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay: tại Hà Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.
Trong mấy năm vừa qua, đã có tầu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng Không Mẫu Hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng.
Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một “không quân nhỏ” (small air force) lưu động.
USS Carl Vinson thuộc loại “Nemitz,” một siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy bằng nguyên tử. Nó chính là tầu chỉ huy của Đội Mẫu Hạm Tấn Công Số I (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ Tam Hạm Đội, mạnh mẽ nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương (trách nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội). Tầu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự – nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.
Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động (và 6 cái đang được sản xuất). Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, tức là hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh Quốc (4 cái), Pháp (2), Ý (1). Nước Nga chỉ có một cái còn đang hoạt động là Admiral Kuznetsov. Nga có 4 cái khác nữa nhưng thuộc vào loại Kiev (như Minks, Novorossiysk): tất cả đều đã “về hưu.”
Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương.
Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang tại xưởng đóng tầu Đại Liên (Dalian) ở đông bắc TQ, đổi tên là Liêu Ninh. Tầu được đưa vào hoạt động năm 2012, mục đích là để tập luyện.
Hè 1974 chúng tôi có dịp thăm viếng Trung Tâm Hành Quân của Đệ Thất Hạm Đội ở Honolulu và được chỉ dẫn về các hoạt động chính yếu của một hàng không mẫu hạm. Các chuyên gia cho thấy: việc điều khiển một hàng không mẫu hạm trên đại dương, nhất là giữa một cuộc chiến là hết sức phức tạp, nó đòi hỏi nhiều kỹ năng và kinh nghiệm. Nguyên công tác “roping” (buộc giây, thả neo) đã rất phức tạp. Rồi đến việc điều khiển từng lớp khu trục cất cánh, hạ cánh, đến công tác phòng không, chống tầu ngầm, điều hợp với các tầu hộ tống, với trung tâm hành quân và các lực lượng hỗ trợ từ trên bờ.
Ngoài số lượng, TQ chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến lớn chứ chưa cần nói tới hàng không mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng chiến lược Inchon (phía tây của Nam Hàn, khoảng 100 dặm về phía nam vĩ tuyến 38 và 25 dặm từ Seoul) vào ngày 15/9/1950, quân đội TQ và Bắc Hàn phải vội vã cuốn gói rút về qua vĩ tuyến 38.
Tới Trận Hoàng Sa: tuy là nhỏ mà TQ cũng đã bị Hải Quân VNCH gây tổn thất nặng nề. Ngược lại, Mỹ thì đã có kinh nghiệm về đại hải chiến và xử dụng hàng không mẫu hạm từ cả một thế kỷ: trong Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế Chiến, tới chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng Trung Đông. TQ có nhiều tiền, có thể mua tất cả những khí giới tối tân trên thế giới này nhưng không thể nào mua được một thế kỷ kinh nghiệm về đại hải chiến.
Mở ra một chương lịch sử mới?
Như chúng tôi đã có dịp đề cập trước đây, trong chuyến công du tại Hà Nội năm 2016, TT Barrack Obama đã gợi ý về trang sử mới này khi ông trích Nguyễn Du trong truyện Kiều:
“Rằng trăm năm cũng từ đây.
Của tin gọi một chút này làm ghi“
Tiếp theo, TT Trump đã đi thẳng vào vấn đề và phát biểu “Chúng ta đã gắn kết dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái khẳng định những gắn kết đó.”
Thông cáo chung cũng xác định việc“mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở … các lợi ích chung và mong muốn chung.”
Tại Hà Nội ngày 25 tháng 1 vừa qua, Bộ trưởng QP Jim Mattis đã cám ơn Việt Nam về sự phát triển của quan hệ đối tác ấy, qua việc hàng không mẫu hạm tới Đà Nẵng (nguyên văn: “Thank you for increasing partnership, with our aircraft carrier coming into Danang here in March” ).
Thứ tư, tác động vào đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng muốn gián tiếp trấn an các quốc gia đồng minh tại Á Châu . Họ đang lo ngại về quyết tâm của Mỹ. Lại nữa, cho tới nay chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rõ ràng về Biển Đông. Bây giờ, với việc tầu USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng – lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (nhắc lại, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chứ không phải từ khi cuộc chiến kết thúc năm 1975 như truyền thông thế giới đã loan tin) – bất chấp sự phản đối của TQ, đồng minh Á Châu sẽ thấy – từng bước một – chính quyền Trump có lập trường bảo vệ Biển Đông – bằng hành động – và cứng rắn hơn thời TT Obama nhiều.
Đã không phải là ngẫu nhiên mà TT Trump lại tăng thuế mạnh tới 25% vào nhập cảng thép (phần lớn là từ TQ) cùng một thời điểm với sự có mặt của siêu hàng không mẫu hạm ở Đà Nẵng – ngay sát Hoàng Sa và chỉ cách căn cứ hải quân lớn của TQ trên 400 km.
Thứ năm: lợi ích chiến thuật: đó là để chính thế hệ trẻ của hải quân Mỹ – những quân nhân mới vào cuộc sau chiến tranh Việt Nam, gồm cả trên hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm quen với bãi biển, hải cảng và sân bay Đà Nẵng.
Cách đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc da cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012 (mà không phải trên dẫy Trường Sơn), chúng tôi cho rằng Mỹ khó mà quên được cái địa danh Đà Nẵng.
Rõ ràng là bang giao mang tính chiến lược và tiến tới toàn diện Việt – Mỹ đã đi được một bước đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bước ấy dài hay ngắn thì còn tùy thuộc vào việc có hay không những hành động có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để đặt câu hỏi liệu sẽ có những cuộc tập trận giả, thao diễn quân sự Việt – Mỹ có tầm cỡ lớn với sự tham gia của Hải Đội Tấn Công USS Carl Vinson trong năm 2018 hay không?
Thay lời cuối: hôm nay, ngày 6/3/1018 thấy trên mạng chiếu cảnh người dân Đà Nẵng bắt nhịp với ban nhạc Hạm Đội 7 hát bài “Nối VòngTay Lớn” tôi không thể không nghĩ tới khả năng rằng: biết đâu biết đâu đấy, một trang sử mới của bang giao Việt-Mỹ đã thực sự bắt đầu – như cựu TT Obama đã có dịp gợi ý: “Rằng trăm năm cũng từ đây?”
Muốn cho chương lịch sử này kéo dài và bền vững thì nó phải dựa trên căn bản dài lâu và vững chắc.
Căn bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước: chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng quan trọng nhất thế giới ($3,000 tỷ lưu thông mỗi ngày) (*) – hai mục tiêu hoàn toàn là tự vệ chứ không phải khiêu khích hay tấn công. Tuyến hàng hải này nằm chỉ cách vùng duyên hải của Việt Nam 12 hải lý.
Việt Nam, lại một lần nữa có cơ hội đóng vai trò địa chính trị chiến lược trên thế giới, nhờ vào vị trí nhìn ra Biển Đông của Đà Nẵng.
____
(*) Ghi chú của Tiếng Dân: Có lẽ tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhầm, con số 3,000 hàng hóa lưu thông qua Biển Đông mỗi ngày là không chính xác. Theo số liệu của Trung tâm CSIS, hàng hóa lưu thông qua Biển Đông hàng năm trị giá 5.3 trillion dollars, tức 5,300 tỷ Mỹ kim. Lấy con số này chia cho 365 ngày trong năm, mỗi ngày chỉ có 14,5 tỷ hàng hóa lưu thông qua Biển Đông.
Cảm ơn một vị khách phát hiện sai sót này và bình luận bên dưới.