Monday, December 23, 2024
HomeGiáo DụcVỀ BÀI THƠ “THẦN”

VỀ BÀI THƠ “THẦN”

Phạm Lưu Vũ

Bài thơ “Thần” mà người Việt hầu như ai cũng thuộc:

“Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Tương truyền là của Lý Thường Kiệt, song một số học giả tân thời thống nhất lại là không rõ tác giả, và xuất hiện từ thời Lê Đại Hành. Cũng ổn thôi, vì thời ấy, vị vua anh hùng này đã chỉ huy quân dân Đại Cồ Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống. Và cũng là vị vua duy nhất trong lịch sử sau khi chết không được đặt tên thụy, cứ phải mang danh “đại hành Hoàng đế” cho đến tận bây giờ. Thụy là tên hiệu của người ngủ giấc vĩnh hằng, còn “đại hành” là danh từ chung, chỉ vua chết, vua nào chết cũng gọi là “đại hành” (cuộc đi lớn), cũng như Phật chết gọi là “đại bát” (Niết Bàn) – cuộc dạo chơi lớn trong Niết Bàn. Chắc không phải do triều đình nhà Tiền Lê quên, mà thuở ấy, sự tiếp thu văn hóa phương Bắc của các cụ ta vẫn còn lúng túng chăng?

Bài thơ trên được cụ Trần Trọng Kim dịch, dùng cho sách giáo khoa ngót trăm năm nay, những thế hệ chúng tôi ai cũng thuộc lòng:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rõ ràng sách Trời đã phân định

Cớ sao quân giặc dám xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”

Mãi đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, một lần đến hầu chuyện cố họa sĩ Phạm Công Thành ở Yết Kiêu, bác Thành là người tinh thông Dịch lý, tôi đã được bác giảng cho, rằng dịch như thế là sai, ngay câu đầu tiên.

Không có “ông vua” nào ở đây cả. “Nam đế cư” là ngôi “đế” đóng tại phương Nam, thì cả “Sông núi nước Nam” thuộc về ngôi đế, điều đó đã phân định rõ trong “sách Trời”. Sách Trời ở đây bác Thành giảng là kinh Dịch, phía Nam là phương vị của quẻ Ly (hỏa). Mặt trời, vua là “tượng” của quẻ Ly, cũng như mặt Trăng, bề tôi là “tượng” của quẻ Khôn. Đây là lý do bà phu nhân họ Nhữ vì nổi giận mà bỏ ông Văn Định, vì ông đã đem chữ “nguyệt” (mặt Trăng) ra dạy con là Văn Đạt (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Bác Thành chỉ giảng đến đấy, tôi cũng phục lắm rồi. Sau này, tôi còn phát hiện thêm, rằng “thiên thư” dịch nghĩa đen là sách Trời, nhưng phải hiểu là “thiên văn”, cụ thể là Thái Ất, một pho sách về thiên văn, lấy sao Bắc Đẩu làm trung tâm, dùng số học để “đọc” vũ trụ, được các cụ ta áp dụng vào việc binh, nhìn sao để bày trận, trương cờ, xem gió để biết thế địch, ta… Chính Đức Hưng Đạo Đại Vương cũng dùng Thái Ất để soạn “Binh Thư Yếu Lược”, không thèm coi “Binh Pháp Tôn Tử” ra cái gì. Kết quả đã ngăn lũ phương Bắc (quẻ Khảm) thành công, bảo vệ “Nam quốc sơn hà”, lần nào cũng thắng lợi.

Pho Thái Ất có từ trước thời vua Lê Đại Hành, do người Việt làm ra, không phải người Hán. Nên các cụ ta dẫu có lúng túng trong việc đặt tên thụy cho “đại hành Hoàng đế” theo tục phương Bắc, thì cũng rất giỏi thiên văn rồi, cho nên mới khẳng định một cách hùng hồn như thế.

Tiếp đến câu thứ ba thì dịch như trên là ổn. Nhưng câu kết thứ tư thì sai nghiêm trọng, khiến nhiều thế hệ như chúng tôi bị đánh lừa ngót trăm năm nay.

Câu kết: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” thì hai chữ “nhữ đẳng” không có nghĩa là “chúng bay” (trỏ quân giặc), mà là “các ngươi” (trỏ tướng sĩ của ta). Trong “Hịch tướng sĩ”, Đức Hưng Đạo Đại vương đã dùng hai chữ “nhữ đẳng” tới 16 lần, đều được các cụ dịch là “các ngươi” cả. Điều kì lạ là chính cụ Trần Trọng Kim cũng dịch “Hịch tướng sĩ” như thế, mà ở đây lại dịch thành “chúng bay”?

Và như một sự cố ý? Cụ Kim đã bỏ qua không dịch hai chữ tiếp theo là “hành khan”. “Nhữ đẳng hành khan” nghĩa là nếu các ngươi chỉ ngồi xem (mà không làm gì cả), thì sẽ “thủ bại hư”, nghĩa là tự chuốc lấy thất bại. Rõ ràng là cảnh báo tướng sĩ của mình, chứ không phải cảnh cáo quân giặc.

Với một người có kiến văn trung bình, cũng đủ hiểu từ cái “tứ” của câu này, mà Đức Trần Hưng Đạo đã viết nên Hịch tướng sĩ bất hủ. Đoạn Ngài viết: “Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu / Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý…” (Các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo / thấy nước bị làm nhục mà không biết sợ…), rõ ràng là cùng một “tứ” với câu “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Binh pháp từ Thái Ất mà ra, nhưng thuận đạo trời cũng chưa chắc đã cát, nghịch đạo trời cũng chưa chắc đã hung, mất nhân tâm thì chắc chắn bại là nghĩa như vậy.

Cụ Trần Trọng Kim là chính khách, là Nho gia, là học giả… mà dịch như thế thì quả cũng kì lạ, khiến cho đời nay coi bài thơ “thần” là bản “tuyên ngôn” đầu tiên (thực ra chỉ đúng với 2 câu đầu). Và biết bao thế hệ học trò, cho đến tận bây giờ vẫn thuộc lòng sự sai sót chết người ấy.

Thậm chí ngày nay còn tệ hại hơn cả bản dịch của cụ Kim, là SGK ngữ văn lớp 8, còn “cải tiến” bằng bản dịch của Ngô Linh Ngọc (chắc cũng tiến sĩ, bộ sậu của GS Thuyết). Sự thậm tệ đến mức dở chữ, dở người, cười không nổi ấy của tác giả Ngô Linh Ngọc như sau:

“Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự

Sách trời phân định rõ non sông

Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm

Bay hãy chờ coi chuốc bại vong”

Hehe

RELATED ARTICLES

2 COMMENTS

  1. You appear to be able to read my thoughts. It’s as though you authored the book on this subject or something. You seem to know so much about it. I think a few graphics could help to emphasise the point a little bit more, but other than that, this is a terrific blog, and I will surely be back.

  2. Excellent rhythm, please let me know when you make modifications to your website so I may learn from you. How can I register with a blog website? I was aware of this to some extent, but your broadcast provided me with a comprehensive grasp of it, so the account was really helpful.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular