(DU TỬ LÊ)
Xin mời các bạn đọc và tri âm của mây cùng thưởng thức một bài nhận định mà mây cho rằng, lời lẽ dùng để sử dụng trong bài, đích thực là ngôn ngữ của thơ, hay nói khác đi – đây là một bài nhận định về thơ (của mây) được viết bằng những câu, từ… rất thơ.
Ở tuổi mười lăm, mười sáu, mây đã biết đến ông, đã thần tượng ông và “bị” những lời thơ ông làm cho mê hoặc, mê hoặc ấy, đến tận bây giờ đây, vẫn không hề suy suyển.
Từ lời giới thiệu của nhà văn Khánh Trường, ông nhận lời đọc thơ mây và liền ngay sau đó, ông viết cho mây bài nhận định này, bài nhận định đầu tiên trong tập thơ đầu tiên (của đời thơ mây) – LỤC BÁT PHẠM HIỀN MÂY.
Nói ơn ông sẽ mãi mãi là điều vô nghĩa. Cho đến hôm nay, mây vẫn chưa được hân hạnh gặp ông, một ly nước mời ông cho phải đạo, cũng chưa từng.
Thôi thì xin nợ ông vậy, như đã từng nợ rất nhiều ân nhân trong kiếp này.

Ông chính là Du Tử Lê – nhà thơ của hàng trăm câu thơ để đời, của hàng trăm bài thơ mà bao thế hệ trong và ngoài nước thuộc vanh vách, của hàng mấy mươi bài thơ được các nhạc sĩ trứ danh phổ nhạc… , ông còn là nhà thơ của nỗi niềm sâu thẳm “chỉ nhớ người thôi đủ hết đời”.
**
PHẠM HIỀN MÂY, TREO CAO ĐAM MÊ TRÊN VÀNG SON LỤC BÁT.

Từ hồi nào giờ, tôi vẫn tin thi ca của một dân tộc không bao giờ nằm ngoài những chuyển biến lịch sử, xã hội của một dân tộc đó. Bởi vì ngôn ngữ thi ca, chính là tấm gương soi phần trầm, khuất nhất của sinh hoạt trí tuệ một dân tộc. Ngay cả khi may mắn dân tộc ấy, có được cho riêng mình một thể thơ riêng. Thí dụ, Việt Nam, lục-bát.
Vì thế, khi lục-bát được nâng lên cấp độ cao nhất của nghệ thuật kể chuyện, bởi thi hào Nguyễn Du, nó đã dừng lại với người thừa kế tài hoa Nguyễn Bính (cụ thể qua thi phẩm “Lỡ bước sang ngang” và, những bài thơ “trăm câu một vần”, rất gần ca dao của ông).
Kế tiếp, cùng với sự tiếp cận nghệ thuật tả cảnh tây phương, lục-bát hình thành một dạng thức khác: lục-bát Huy Cận, Hồ Dzếnh… .Theo tôi, đó là thứ lục-bát ra khỏi phạm trù kể chuyện – mở đường cho hình ảnh hay những ngẫu tượng lên ngôi; như một cuộc thay máu cần thiết, để lục-bát còn được nhận như một đặc trưng riêng của văn học Việt Nam. Nhưng, vẫn theo tôi, nỗ lực của Huy Cận và Hồ Dzếnh, cũng chỉ như một rớt bão. Không dài lâu.
Từ nhiều thập niên qua, lục-bát của chúng ta, đã không còn là mũi “xung kích” ngoạn mục nơi quảng trường thi ca đất nước nữa.
Thời gian không đứng về phía lục-bát. Lục-bát ngày nay của chúng ta, chỉ còn có cho nó những đường kiếm ngoạn mục, khi được dùng trong phạm vi thơ tự-trào hoặc, thơ giễu-nhại… .
Vì thế, thâm tâm, tôi vẫn có ý khâm phục sự can đảm vượt bậc của những người làm thơ, chẳng những vẫn thủy chung ăn ở với lục-bát mà, còn đánh cược tài năng, treo cao đam mê mình trên nắng, gió chênh vênh lộ trình một thi phẩm, lục-bát!
Hôm nay, tôi xin gửi sự khâm phục của cá nhân tôi vào thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây.
Phạm Hiền Mây là “người tình” chung thủy của lục-bát, nên tôi tin, người đọc sẽ không ngạc nhiên lắm, khi ngay tự những vần thơ thứ nhất của thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây, đã tươm đậm hồn tính ca dao Việt Nam ngày qua và, những so sánh hay liên tưởng đương đại:
bụi hoa xưa đã lên vài
nhánh vàng cổ tích dốc dài tình nhân
(…)
buồn sâu kèn đã tơi bời
bướm ơi chuyển kiếp giữ lời tìm nhau
(trích “giữ lời tìm nhau”)
Hay:
mặn em nhỏ xuống chẳng dừng
trên vai anh ướt không ngừng trời mau
mưa nghiêng trút xuống nỗi đau
trái oan khiên chín đỏ au phận người
vết thương chín mọng ngực đời
và em quả chín rụng lời từ ly… .
(trích “vô thường nhỡ mai”)
Khởi tự tính từ “mặn” chỉ nước mắt, trên vai người yêu, Phạm Hiền Mây dùng lục-bát để dẫn cơn mưa, nỗi đau đi lần tới “trái oan khiên chín đỏ” là sự rụng xuống (không thể khác hơn?) của những “lời từ ly”.
Hoặc nữa:
nắng lâm chung tắt thình lình
chưa hoàng hôn đã một mình niềm riêng
môi vào nhau sớm thần tiên
dậy thì đánh rớt tháng giêng nhớ người… .
(trích “tháng giêng nhớ người”)
Bằng vào ghi nhận của tôi, Phạm Hiền Mây không chỉ có khả năng “nhân cách hóa”một cách bất ngờ mà, họ Phạm còn có khả năng làm mới thơ mình bằng vào những tương tác vi tế mà, nếu không phải là người nữ, tôi e, các tác giả khác, sẽ rất khó cảm và nhận. Thí dụ:
mùa đông một sớm mùa đông
không dưng em mắt môi nồng tình anh
(trích “mình yêu nhau nhé”)
Hoặc:
tiễn anh đếm lá hồn mình
(trích “phù du yêu người”)
Hoặc nữa:
tóc dài ngọn hẹn rưng rưng
chờ giây phút được giọng mừng dạ thưa… .
(trích “nhớ anh thôi đã rất thừa mùa đông”)
Bên cạnh đó, Phạm Hiền Mây cũng cho thấy chủ tâm (?) khai thác từ kép của tiếng Việt, để dòng chảy thi ca có được nhịp lẻ, khác hơn nhịp chẵn hay đều (2/ 2/ 2 hoặc 3/3) quen thuộc, nhàm chán:
đời em mộng sóng lênh đênh
ướt em giấc ngủ muộn bềnh bồng trôi… .
(trích “lênh đênh sóng rồi”)
Vì tính từ “bềnh bồng” là từ kép, không thể tách bạch, nên nhịp đi của câu thơ tám chữ này, với tôi, ít nhất cũng có được cho nó hai nhịp lẻ là:
uớt em / giấc ngủ / muộn bềnh bồng / trôi (2 / 2 / 3 / 1)
Vẫn trong ghi nhận của tôi, dù người đọc có thể kiếm tìm được khá nhiều so sánh, liên tưởng bất ngờ trong cõi-giới Lục Bát Phạm Hiền Mây, nhưng ở đó, người đọc cũng rất dễ bắt gặp những từ ngữ, hình ảnh ước lệ như:
mù sa xuống ướt nẻo kiều
dấu chân gió bạt bước liều ngày nao
(trích “tình thơm giấc buồn”)
Hay:
ngẩn ngơ mộng suối im lìm
hé hoa ngọc vóc lặng chìm tiểu khê
mở sa mây ngọn thường nghê
đôi bờ cỏ đợi sầu mê dáng kiều… .
(trích “mở”).
Và, khá nhiều từ ngữ, thành ngữ trở thành ước lệ đã lâu, như: giang hà, từ ly, cố tri, phù vân, phù hư, ba đào, cỏ khâu, cổ lục, lưu thủy trường giang v.v… .
Tôi cũng lấy làm tiếc khi lẫn trong Lục Bát Phạm Hiền Mây, một số bài có nhiều chữ Hán-Việt, hoặc điển tích, như các bài: mây buồn nghìn năm, không đợi chờ, về ngủ thiên thu mây trời… .
Tôi nghĩ đường bay Lục Bát Phạm Hiền Mây sẽ bay cao, xa hơn nữa, nếu thơ họ Phạm không bị trì níu, kéo xuống thấp bởi những xác chữ gây nhiễm độc không gian thơ của chúng ta, nhiều chục năm qua.
Dám mong vậy thay!
Du Tử Lê
(Calif. Tháng 3-2018)