TUỔI TRẺ
TTCT – Kết quả nghiên cứu đóng góp như thế nào cho việc hoạch định chính sách, việc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, và những đóng góp đó có xứng đáng với số tiền mà người đóng thuế đã chi trả cho giới nghiên cứu hay không?
Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) được chính thức thành lập năm 2012 trên cơ sở Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2008), vốn tiền thân là Ban Nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn học thành lập từ năm 1953. Viện bao gồm 37 tổ chức trực thuộc, trong đó có 32 tổ chức là các viện nghiên cứu chuyên ngành trong lĩnh vực khoa học xã hội.
Những con số biết nói
Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng – vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, hiện nay đội ngũ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ của cả VASS là 380, trong đó có 175 người có chức danh giáo sư, phó giáo sư. Trong khi đó, theo trang web của viện, VASS có hơn 700 cán bộ có học hàm giáo sư, phó giáo sư, học vị tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, thạc sĩ thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2015 tổng chi ngân sách nhà nước cho viện này là 504,5 tỉ đồng, tương đương 22,6 triệu USD. Với con người và nguồn lực như trên, năm 2015 VASS có tổng cộng 5 bài công bố khoa học trong danh mục ISI của Web of Science, với số lượt trích dẫn là 8 và số lượt trích dẫn trung bình là 1,60 (*).
Nếu tính cả quá trình 5 năm từ 2011-2015, tổng số công bố ISI của viện là 22 bài, một thành quả chỉ tương đương con số bài báo khoa học tối thiểu để được bổ nhiệm giáo sư ở Malaysia. Nếu so với cả nước, tổng số công bố ISI của Việt Nam năm 2015 là 2.775 bài, VASS có 5 bài. Liệu có thể giải thích như thế nào về những con số trên đây?
Hiệu quả của nghiên cứu
Bài báo ISI tất nhiên không phải là tất cả thành quả nghiên cứu của một cá nhân hay tổ chức. Đặc biệt là trong khoa học xã hội, có nhiều hình thức công bố khác, chẳng hạn viết sách, thực hiện các báo cáo tư vấn…
Bài báo khoa học, kể cả trên các tập san quốc tế, không phải là mục đích tự thân của hoạt động nghiên cứu. Câu hỏi cuối cùng vẫn là: những kết quả nghiên cứu này đã đóng góp như thế nào cho việc hoạch định chính sách, việc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, và những đóng góp đó có xứng đáng với số tiền mà người đóng thuế đã chi trả cho giới nghiên cứu hay không?
Tuy vậy, công bố quốc tế là một thước đo tương đối khả tín cho phẩm chất khoa học của các kết quả nghiên cứu. Để được giới hàn lâm quốc tế nhìn nhận, những công trình này cần được thực hiện với những phương pháp thích hợp và có những đóng góp mới mẻ cho chuyên ngành.
Vì vậy, khoa học xã hội Việt Nam khó mà biện minh cho việc đứng ngoài dòng chảy toàn cầu, bằng cách coi nhẹ việc công bố quốc tế.
Trả lời trong cuộc họp báo ngày 22-4, VASS cho biết trong 5 năm qua, viện có 400 xuất bản phẩm quốc tế ở nhiều dạng. Tuy nhiên, danh sách 400 công trình này chưa được công bố nên không thể bình luận gì thêm. Nhưng điều này đặt ra một vấn đề lớn không chỉ cho viện mà cho tất cả cơ quan, tổ chức nghiên cứu đang sử dụng tiền ngân sách. Đó là sự minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Phải minh bạch, vì là tiền thuế của dân
Không ai phủ nhận tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học xã hội. Thậm chí, xã hội càng nhiều vấn đề (kinh tế khủng hoảng, bạo lực tràn lan, cải cách giáo dục, cải cách thể chế, các vấn đề tội phạm…) thì nghiên cứu khoa học xã hội càng cần thiết và bức bách.
Vì vậy, tăng cường kinh phí nghiên cứu để dùng tri thức góp phần giải quyết những vấn đề ấy là điều hợp lý. Tuy nhiên, ngân sách là tiền của người dân đóng thuế, vì vậy người dân cũng cần được biết các nhà nghiên cứu đã sử dụng đồng tiền ấy như thế nào và mang lại kết quả ra sao.
Chỉ sự minh bạch là có thể giúp thực hiện được trách nhiệm giải trình. Trong trường hợp này, rất cần viện công bố chi tiết danh sách các xuất bản phẩm quốc tế và các thành quả nghiên cứu khác của viện, thậm chí công bố toàn văn.
Nếu công trình nào ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì không cần công bố, nhưng không lẽ tất cả công trình nghiên cứu của viện đều liên quan đến an ninh quốc gia? Có hàng trăm, hàng ngàn đề tài hết sức bức thiết để cải thiện chính sách, cải thiện nhận thức và đời sống của người dân, vì sao viện không nghiên cứu?
Áp lực đòi hỏi thực hiện trách nhiệm giải trình với các trường đại học đang ngày càng tăng, các viện nghiên cứu không thể là ngoại lệ, đặc biệt là khi sử dụng nguồn ngân sách lớn như vậy. Nhà nước cần có chính sách buộc các viện phải công bố báo cáo thường niên và công bố các kết quả nghiên cứu của viện, nếu không phải là toàn văn, ít nhất cũng là bản tóm tắt.
Tất cả những điều này sẽ mang lại tính chính danh cho Nhà nước, vì xét cho cùng, nhiệm vụ quan trọng nhất của Nhà nước là hành động nhằm bảo vệ lợi ích của người dân, tức là những người đang đóng thuế để nuôi bộ máy nhà nước.■
(*) Nguồn: www.scientometrics4vn.com