Thursday, November 14, 2024
HomeCHỐNG THAM NHŨNGVấn đề tham nhũng trong “chính sách thông thoáng”

Vấn đề tham nhũng trong “chính sách thông thoáng”

Bài viết trên Tạp Chí Phương Đông
Một là, vấn đề tham nhũng trong “chính sách thông thoáng”
Niva Yau, nghiên cứu viên Nhật Bản của Trung tâm Trung Quốc toàn cầu thuộc Hội đồng Đại Tây Dương cho rằng nếu đánh giá từ 3 dự án lớn, đó là cảng cạn Khorgos gần biên gới Kazakhstan (Trung Á), cảng Hambantota của Sri Lanka và Tuyến đường sắt Bờ biển phía Đông chưa hoàn thành của Malaysia thì nêu bật thất bại lớn nhất của BRI, đó là tham nhũng quá nghiêm trọng. Lý do đằng sau điều này là cách tiếp cận của Trung Quốc cho phép giới tinh hoa của nước sở tại được hưởng lợi, nhưng BRI chỉ tập trung vào kết nối thương mại và cơ sở hạ tầng, mà không có ý định tạo ra mô hình quản trị hiệu quả.
Hai là, định hướng lợi nhuận từ “đường sá liên thông”
BRI dựa trên “sự hợp tác và cùng xây dựng”, tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng lại xem nhẹ trách nhiệm đối với triển vọng phát triển của nước sở tại. Ammar A Malik, nhà khoa học cấp cao tại AidData, phòng nghiên cứu thuộc đại học William & Mary (bang Virginia, Mỹ) cho rằng các công ty Trung Quốc đến thực hiện các dự án với tâm thế kinh doanh và không có ý định tham gia vào kế hoạch “phát triển” lâu dài của nước sở tại. Với tư duy phát triển hướng tới lợi nhuận này đã khiến các nước sở tại rơi vào tình cảnh khó khăn mà họ vốn đang phải đối mặt như tham nhũng, ô nhiễm môi trường, bảo hộ lao động, dẫn đến khó có thể phát triển một cách bền vững.
Ba là, ngoại giao bẫy nợ với tiền tệ lưu thông
Khái niệm “chính sách ngoại giao bẫy nợ” cũng được bàn luận rộng rãi với hàm ý Trung Quốc đang cố tình gây sức ép cho các quốc gia tham gia BRI, tạo nên quyền lực mềm của mình. Bằng cách lôi kéo các nước tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khổng lồ, Trung Quốc đã tạo ra sự phụ thuộc của các nước đó đối với chính sách của mình khi các nước mất đi khả năng trả nợ, cuối cùng phải bán lại các tài sản như cảng biển hoặc quyền sở hữu khoáng sản để gán nợ.
Các điều khoản để vay Trung Quốc không phức tạp như các yêu cầu mà IMF đặt ra cho các nước đi vay nợ. Chính vì lý do như vậy mà các nước đang gặp khó khăn về kinh tế đều tìm đến các khoản cho vay của Trung Quốc. Tất nhiên, việc vay dễ dàng đi kèm với điều kiện là chi phí vay không hề rẻ. Theo tính toán của các chuyên gia, các khoản vay giải cứu của Trung Quốc có lãi suất trung bình khoảng 5%, trong khi một khoản vay giải cứu của IMF chỉ khoảng 2%.
Các khoản nợ của Trung Quốc đang tạo ra gánh nặng cho tài chính quốc gia và khiến các nước càng trở nên phụ thuộc vào Bắc Kinh. Tại các quốc gia mắc nợ Trung Quốc nhiều nhất như Pakistan, Kenya, Zambia, Lào và Mông Cổ, gánh nặng từ các khoản nợ được đặt lên vai người dân thông qua thuế. Dự trữ ngoại tệ quốc gia cũng dần cạn kiệt khi các nước dùng ngoại tệ để thanh toán lãi cho các khoản vay. Thống kê cho thấy, 50% tổng các khoản nợ nước ngoài của các nước này là từ Trung Quốc và họ phải sử dụng 1/3 tổng thu nhập công để trả nợ. Như trường hợp của Lào, nợ vay Trung Quốc được ước tính khoảng 12,2 tỷ USD hay 64,8% GDP Lào vào năm 2021. Lào đã phải cam kết lấy thu nhập từ một mỏ bauxite và ba mỏ kali làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Ở một dự án khác, Lào đã phải nhượng quyền cho một công ty Trung Quốc quyền xây dựng vào quản lý lưới điện quốc gia trong vòng 25 năm để đổi lấy việc xóa nợ. Trường hợp khác, tập đoàn COSCO của Trung Quốc đã mua lại 67% cổ phần của Cảng Piraeus, cảng lớn nhất Hy Lạp. Một số nước như Sri Lanka đã bị buộc phải nhượng lại cơ sở hạ tầng (cảng Hambatota) cho Trung Quốc theo hợp đồng thuê 99 năm, chẳng khác nào một sự từ bỏ chủ quyền.
Bốn là, sự “chảy ngược” của hàng hoá Trung Quốc với “thương mại thông suốt”
Hầu hết các nước ký kết BRI đều hy vọng rằng với sự kết nối về cơ sở hạ tầng như vận tải đường biển và đường bộ, các nước có thể tăng xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng mọi thứ không như mong muốn. Italy là quốc gia mới đây nhất dự định rút khỏi BRI, lý do nước này không được hưởng lợi từ sáng kiến này. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Italy Guido Crosetto chỉ trích quyết định tham gia BRI là quyết định “ngẫu hứng và tồi tệ”. Trong cuộc phỏng vấn của CNN, ông còn chỉ ra một cách cường điệu rằng xuất khẩu của Trung Quốc sang Italy đã tăng gấp nhiều lần trong 3 năm qua, nhưng Italy “chỉ bán được một lô cam” cho Trung Quốc.
Niva Yau của Hội đồng Đại Tây Dương cho rằng, kết nối cơ sở hạ tầng vốn có lợi cho việc đưa sản phẩm của Trung Quốc vào thị trường các nước hiệu quả hơn. Ông cũng cho rằng thâm hụt thương mại, một số nước ký kết BRI còn phải trả giá chính trị, chẳng hạn Malaysia phải thăm dò thái độ của Trung Quốc, không dám đứng ra chỉ trích các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Năm là, bóc lột sức lao động dưới danh nghĩa “lòng dân thông hiểu”
Khi các nước chấp nhận dự án BRI, phía được hưởng lợi nhất là công ty Trung Quốc và hàng trăm nghìn lao động Trung Quốc, gây ra phản ứng dữ dội từ tầng lớp công nhân ở nhiều quốc gia. Mặc dù sau đó các công ty Trung Quốc đã tung ra cơ hội việc làm và đào tạo tại chỗ cho người lao động ở nước sở tại, nhưng quan niệm về quyền lao động của công ty Trung Quốc không tốt. Thậm chí ngay cả người lao động Trung Quốc cũng phàn nàn rằng họ bị đối xử hà khắc khư khấu trừ lương, đối xử bạo lực, hạn chế quyền tự do các nhân, bị nợ 3-4 tháng tiền lương hoặc khi phải về nước mới được thanh toán tiền lương.
Thông qua BRI, Trung Quốc khiến các nước đang phát triển lệ thuộc vào nợ và sau đó chuyển sự lệ thuộc đó thành ảnh hưởng địa chính trị. Tuy nhiên, tình hình chính trị và kinh tế của những quốc gia này cũng có không ít những vấn đề trở ngại, khiến Trung Quốc phải đối mặt với những nhược điểm về sự thay đổi chính trị và rủi ro nợ nần. Pakistan có vị trí địa chính trị rất quan trọng, nên việc xây dựng hành lang kinh tế Trung quốc – Pakistan hiển nhiên mang lợi ích cho Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Pakistan có mối quan hệ không tốt với Ấn Độ và Afghanistan cũng gây sức ép lớn lên chính sách ngoại giao của Trung Quốc.
Báo cáo do Ngân hàng thế giới (WB), Trường Harvard Kennedy, Phòng nghiên cứu dữ liệu AidData của Đại học William & Mary (Mỹ) và Viện nghiên cứu kinh tế thế giới Kiel (Đức) công bố tháng 3 cho thấy trong giai đoạn 2008-2021, Trung Quốc đã tài trợ 240 tỷ USD cho 22 nước đang phát triển. Báo cáo nêu rõ trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều nước nhận tài trợ của Trung Quốc mà khó thanh toán các khoản vay đúng hạn, do đó Bắc Kinh phải cung cấp thêm các gói vay giải cứu để giúp những nước rơi vào khủng hoảng nợ tiếp tục thanh toán các khoản vay trước đó. Ở mức độ nào đó, loạt vấn đề nợ này khiến Trung Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Ở giai đoạn 2016-2021, tỷ lệ nợ của Mỹ trong số các nước chủ nợ toàn cầu đã giảm xuống còn 2,4%, trong khi tỷ lệ nợ của Trung Quốc lại tăng vọt lên 30,4% với hơn 60% các khoản cho vay của Trung Quốc nằm tại các quốc gia gặp khó khăn với việc trả nợ. Mặc dù điều này đồng nghĩa với việc sức ảnh hưởng và địa vị của Trung Quốc tăng lên đáng kể, nhưng dưới tác động dồn dập của đại dịch COVID-19, cuộc chiến Nga-Ukraine khiến giá cả nguyên vật liệu tăng cao và các nước mắc nợ lần lượt yêu cầu giảm nợ. Đây có lẽ là vấn đề lớn khiến Trung Quốc phải đối mặt với kinh tế giảm tốc.
Liên quan đến những tranh cãi về BRI, giới nghiên cứu Trung Quốc cho rằng trong 10 năm qua, BRI đã thành công “mở rộng vòng tròn bạn bè của Trung Quốc, mở rộng quan hệ đầu tư và kinh tế- thương mại của Trung Quốc, giúp nhiều nước đang phát triển cải thiện cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, khiến thế giới (đặc biệt là phương Tây) quan tâm hơn đến các nước đang phát triển và các tổ chức tài chính toàn cầu chú tâm hơn đến việc xây dựng hạ tầng”. Nhìn về tương lai, họ cũng cho biết BRI phiên bản 2.0 dự kiến sẽ chú trọng hơn đến phát triển xanh, tích hợp công nghệ mới, mô hình cùng có lợi và hợp tác toàn diện giữa các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trừ khi Trung Quốc đưa ra các cam kết cải cách chính trị, kinh tế và cải thiện trình độ quản lý trong và ngoài nước, nếu không sẽ rất khó “đánh bóng” lại thương hiệu BRI và không thể thực sự nâng cao vị thế của các nước dọc tuyến – mục tiêu mà các nước này tin rằng có thể đạt được khi quyết định tham gia BRI./.
Đình Thiện – Phạm Huế
Nguồn: Tạp chí Phương Đông – Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông, số 60 tháng 12.2023
RELATED ARTICLES

2 COMMENTS

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular