Cù Mai Công cùng với LVan Le.
5 tháng 5
Kỳ 2: NGƯỜI XƯA LỐI CŨ TRONG XÓM NGHÈO NGOẠI Ô SÀI GÒN
Qua đoạn giữa, ngay ngã tư với Thoại Ngọc Hầu là sang đoạn cuối của đường Bùi Thị Xuân, cái cảm giác xưa cũ càng rõ hơn. Mỗi lần đi qua ngã tư này, tôi vẫn thường nhìn bên phải, nơi hiện nay là một cột điện đúc bê tông. Xưa nó là những thanh sắt, hàn tạo thành hình vuông, dựng trên một bệ bệ tông cao chừng bốn tấc (40cm).
Tôi hay nhìn vì có một hình ảnh của nó tôi không bao giờ quên: trước 1973, một xe buýt thường ghé đây buổi sáng đón kỹ sư Đại Hàn đến nhiệm sở đã bị cài mìn. Chiếc xe nổ banh, xác chết la liệt. Cây cột điện sắt han gỉ đổ gục xuống đường, cả mấy ngày sau vẫn nằm đó. Tôi đi ngang sờ sợ, phải sang bên kia đường để đi.
Sau cột điện này là một miếng đất rộng, ngang và dọc đều vài chục thước của một dòng họ người Nam cố cựu nơi đây, nay con cháu vẫn làm chủ. Từ đó vô sâu bên trong, cư dân nơi đây xưa hầu như toàn bà con làng/xã Tân Sơn Hòa xưa, từ ăn nói đến kiểu cách sống. Bảng hiệu một nhà vẫn ghi “chành xe Thúy Phong”, chở hàng hóa đi các tỉnh phía Nam.
Đường này đến đầu thập niên 1970 cũng là đường đất đỏ, lổn nhổn sỏi đá một hai như ở đoạn đầu trong khi đoạn giữa – xóm đồ gỗ Bắc 54 đã láng xi măng. Đoạn đường cuối này xưa giờ đều không ồn ào, tấp nập buôn bán như đoạn giữa bên kia. Hẻm của nó càng lặng lẽ hơn.
Vô sâu chừng hơn trăm thước, bên phải có một hẻm cụt khá nhỏ, sâu vài chục thước, xưa gọi là hẻm Gà. Có lẽ xưa bà con hẻm này nuôi nhiều gà. Trong hẻm này có nhà Nguyễn Tường Châu, bạn cùng lớp hồi cấp II Ngô Sĩ Liên với tôi. Châu gốc Huế, học giỏi, thấp người, bạn bè gọi là Châu “lùn”. Đối diện nhà Châu là nhà Võ Hoàng Khanh, chung khối 12 với tôi ở trường Nguyễn Thượng Hiền. Bạn bè tới nhà chơi, Khanh nói ba mình là tướng tá gì đó và khoe tờ chứng nhận hay sự vụ lệnh thành lập phi đoàn F5 đầu tiên của Không lực Việt Nam Cộng hòa. Thực hư không rõ và vì sao người ký lại là tướng Phan Trọng Chinh, cục trưởng Cục Quân huấn? Cái rõ là lúc đó, khi ba đi cải tạo, gia đình Khanh khó khăn lắm. Khanh là anh Hai của một đám em lít nhít, sau giờ học phải đi bỏ báo. Tuy vậy, người mẹ gốc miền Trung của Khanh vẫn toát ra vẻ đẹp nền nã và nét sang trọng.
Cùng dãy và cách nhà Khanh vài căn là nhà giáo sư Việt văn, nhạc sĩ Cao Thanh Tùng; vợ là cô Kim Phượng, dạy trường Gia Long (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai). Vị thầy này này trước 1975 rất nổi tiếng Sài Gòn khi dẫn chương trình “Đố vui để học” chiều chủ nhật trên Đài truyền hình Sài Gòn, từ giữa năm 1966 đến đầu năm 1969. Chương trình do Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Văn hóa – Giáo dục (miền Nam) tố chức với nhiều giáo sư trung học có uy tín tham gia. Các buổi thi đồng đội, cá cá nhân sẽ trả lời lần lượt từng câu hỏi; trả lời đúng câu này thì đi tiếp câu kế, sai thì chia tay cuộc thi, dạng như cuộc thi “Ai là triệu phú” sau này.
Giáo sư Cao Thanh Tùng giỏi nhạc cụ, kéo violoncello trong “Tiếng Tơ Đồng” trên tivi, một chương trình được người Sài Gòn xưa coi là văn hóa, nghệ thuật nghiêm túc mà hấp dẫn.
Dáng ông roi roi, gương mặt dài, đẹp với chiếc cằm vuông rắn rỏi, đeo kính cận rất trí thức. Không chỉ hình dáng bề ngoài, trong cuộc sống thường ngày, ông hiền lành, ăn nói nhẹ nhàng, cư xử chừng mực đúng nét trí thức Nam bộ, Sài Gòn xưa. Chính ông tự nhận mình là “người đàn ông ngoan trong gia đình” bên người vợ tháo vát, một tay tề gia nội trợ giỏi giang. Hai vợ chồng có hai con gái. Ngôi nhà chật nhưng luôn vang tiếng trò chuyện cười vui với nhau, bên cung đàn violon réo rắt, nhịp violoncello trầm ấm và tiếng piano thanh thoát. Đến nhà Châu chơi, đối diện xéo nhà ông, thỉnh thoảng tôi nghe tiếng đàn violoncello vang lên nhè nhẹ. Hàng xóm bảo: “Nhà ông bà giáo Tùng là ban nhạc hạnh phúc”.
Theo anh Lê Học Lãnh Vân, tiến sĩ sinh học, một người em rất thân thiết với ông mà ông coi như gia đình, cuối năm 1974, ông Tùng có khả năng là thứ trưởng Bộ Thanh niên – Giáo dục. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, vị hiệu trưởng trẻ nhất của trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký xưa, từng là thứ trưởng Bộ Thanh niên – Giáo dục Việt Nam Cộng hòa, một người có uy tín trong ngành giáo dục, rất quý trọng tài năng, đức độ của giáo sư Cao Thanh Tùng.
Với anh Vân, giáo sư Cao Thanh Tùng “có cả hai tâm thế xuất và xử. Nơi anh, tính nghệ sĩ và tính giáo dục hòa quyện vào nhau. Nơi anh tính phóng khoáng và tính nghiêm cẩn cùng hiện diện. Nơi anh, tài ba gói trong lòng khiêm tốn giản dị. Nơi anh, tình và lý song đôi…”.
Những nhận xét ấy không hề quá lời. Khi nói về chương trình “Đố vui để học” mà mình dẫn chương trình, ông bảo với anh Lãnh Vân: “Mấy đứa giỏi anh nhớ, mà mấy đứa trả lời không được anh thương. Thương nhất mấy đứa không trả lời được câu nào, đứng đực mặt rồi ngơ ngác đi xuống! Anh dặn em nghe, làm thầy giáo phải biết thương mấy đứa học dở”.
Ông hỏi rồi trả lời luôn với anh Lãnh Vân: “Nghe nói em dạy học khó tánh phải không? Em phải biết, đứa giỏi không cần mình dạy nó cũng giỏi, nó cũng tự đặt câu hỏi với mình. Dạy là dạy mấy đứa dở, mấy đứa làm biếng kìa. Nhiều khi tụi nó làm biếng vì tụi nó dở, học không hiểu mới chán học. Mà tụi nó dở, tụi nó không hiểu là bởi tụi nó có điểm gì đó chưa khai thông được. Ông thầy giỏi là người biết khai thông nút bí, biết điểm nhãn học trò! Em mà phá ngu đứa nào, nó cám ơn em tới già. Em nhớ nghe, nhiệm vụ mình là lôi mấy đứa dở thành giỏi!”.
Thầy cô như vậy, chúng ta còn mong gì hơn.
Sau 1975, giáo sư Cao Thanh Tùng lúc ấy chưa tới tuổi 40, tài trí còn lớn, ước vọng còn cao đã phải dừng lại, sống đời ẩn dật, vui với ngón đàn trong hẻm Gà nghèo và những người bạn nghệ sĩ, giáo chức ngày xưa. Thỉnh thoảng đi kéo đàn ở vài nơi. Tới lúc đi định cư ơ nước ngoài, ông vẫn nhẹ nhàng ngẫm đời, nhìn thế sự. “Thả trên mặt nước niềm rung cảm – Gởi tiếng đàn xưa mấy tiếng lòng…” (Lê Học Lãnh Vân).
Qua hẻm Gà vài bước chân, bên kia đường là chùa Viên Giác, ngôi chùa đầu tiên vùng Ông Tạ sau 1954. Chùa theo Phật giáo Bắc tông do Hòa thượng Thích Hồng Tịnh khai mở vào năm 1955. Xưa tôi đi ngang, chùa nhỏ lắm, như một am ẩn tu, tên Ðộc Giác. Sau những lần tu bổ, chùa đổi tên là Viên Giác – giác ngộ tròn đầy, viên mãn. Chùa hiện nay xây dựng năm 2001, không lớn lắm nhưng kèo cột, rui mè, ô cửa tròn, tường bao lượn sóng, mái ngói cong vút… rất đẹp, rất Việt. Sân chùa khang trang, có tháp bằng gốm sứ cao nhất Việt Nam. Chỉ cần bước vô cổng, cả một trời thanh tịnh, nhẹ nhàng như ngày nào.
Qua chùa ít bước chân là xóm Chuồng Bò, có từ thời Pháp thuộc, ăn dài từ giữa đoạn đường này ra tới rạch Nhiêu Lộc với ông chủ chuồng bò nổi tiếng tên Tư Dẫu. Bò trong chuồng của ông Tư có lúc cả trăm con, bán cho cả hai công xi heo/bò bên khu Kiến Thiết và Tân Sơn Hòa trong ngõ Cổng Bom (nay là hẻm 212 Phạm Văn Hai, công xi heo giờ là một cửa hàng đối diện cầu số 2 Hoàng Sa).
Trong xóm này có nhà ca sĩ Trang Kim Yến, một trong “tứ đại mỹ nhân” họ Trang (Trang Thanh Lan, Trang Kim Phụng, Trang Mỹ Dung và Trang Kim Yến) của làng nhạc nhẹ Sài Gòn hồi thập niên 1980. Lúc đó, bà con xung quanh cứ tối tối là thấy ca sĩ Trang Kim Yến đi bộ từ nhà ra đường Lê Văn Sỹ – nơi có xe đón. Hoặc được chồng chở đi hát ở 126 bằng chiếc Suzuki Dame màu đen.
“Tứ đại mỹ nhân” họ Trang này có trước 1975, đều là học trò của quái kiệt – kịch sĩ Tùng Lâm với Ban tạp lục Tùng Lâm nổi tiếng trước 1975. Riêng ca sĩ Trang Kim Yến tên thật là Võ Thị Kim Yến. Họ Võ là một dòng họ lớn của làng/xã Tân Sơn Hòa (chợ Ông Tạ tên chính thức trước 1975 là chợ Tân Sơn Hòa). Đình Tân Sơn Hòa lập ra để kính nhớ, thờ cúng vị thành hoàng Võ tiên sơ. Con ca sĩ Trang Kim Yến là nữ diễn viên Kim Thư tài sắc vẹn toàn trong nhiều phim: Thiên sứ 99, Lục Vân Tiên, Võ lâm truyền kỳ…
Rạch Nhiêu Lộc là điểm cuối của con đường nhỏ này. Ai là dân Ông Tạ, dân Kiến Thiết xưa đều biết cây cầu nhỏ vốn không tên, ngang chừng thước rưỡi, đúc bằng xi măng trộn sạn sỏi này, thông từ An Lạc – Ông Tạ sang khu Kiến Thiết, cách cư xá Kiến Thiết vài chục mét. Người qua lại nhiều, xi măng mòn bớt, sạn sỏi nhô ra, dân gọi là cầu Sạn.
Cây cầu đã bị đập bỏ đầu thập niên 2000, thay bằng hai cây cầu số 4 và 5 trên cặp đường Hoàng Sa – Trường Sa. Nhưng mỗi lần qua đây, cuối con đường này, hẳn không chỉ tôi, nhiều người xưa vẫn còn nhớ những trận kịch chiến bất tận cả chục năm của con nít xóm Nam – Chuồng Bò với trẻ con khu Bắc 54 – An Lạc sống ở hai bên cầu. Từ chuyện đổ rác, hớt lăng quăng về cho cá xiêm đá ăn… tới “ngó mặt thấy ghét”. Tôi và bạn bè ở xóm Đại Lợi có cả Bắc Trung Nam cũng “dính miểng”; có lần bị con nít xóm Chuồng Bò chặn đánh, bỏ chạy, quăng cả bịch lăng quăng vừa hớt…
Nhớ quá những ngày xưa, người cũ của đoạn đường đất đỏ khu xóm nghèo ngoại ô Sài Gòn…