LÝ ĐỢI
Riêng tựa tiểu thuyết “The Sympathizer” của Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen) mà dịch ra tiếng Việt đã có những nan giải và dị biệt. Tiểu thuyết này đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó có Arabic, Brazil, Trung Quốc, Đức, Hà Lan, Nhật, Hàn Quốc, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Romania, Ý…
Hiện nay trong giang hồ tiếng Việt đang lưu hành ít nhất 3 bản dịch “The Sympathizer”, trong đó bản của Lê Tùng Châu chọn dịch là “Kẻ nằm vùng”.
VÌ SAO DỊCH NHƯ VẬY?
Chữ sympathizer là danh từ trong Anh ngữ, bắt nguồn từ một động từ bằng cách thêm tiếp vỹ ngữ er. Nghĩa của sympathize = đồng tình, có thiện cảm, thông đồng v.v…, tùy văn cảnh và cách dùng trong mạch văn. Vậy sympathizer = kẻ thông đồng, người có cảm tình hoặc cảm tình viên (chữ viên là tiếng Hán Việt = người: viên, hoặc nhân).
Tuy nhiên trong Anh ngữ – cũng như trong Việt ngữ mình – người ta có thể dùng nhiều chữ để trỏ cùng một người-sự vật-sự việc.
Xin dẫn chứng, ngay vào đầu tiểu thuyết “The Sympathizer”, tác giả đã viết “I am a spy, a sleeper, a spook, a man of two faces….”. [Tôi là một gián điệp, một kẻ mai phục, một con ma, một kẻ hai mang…]. Thế nhưng đến chương 11 ông lại không dùng “spy” hay “a man of two faces”, mà dùng – và nói nhiều – chữ “mole”.
“… Man would say later, that the committees above decided I would be a mole.
He used the English word, which we had learned not so long ago in our English course, taught by a professor whose greatest joy was diagramming sentences. A mole? I said. The animal that digs underground?
The other kind of mole.
There’s another kind?
Of course. To think of a mole as that which digs underground misunderstands the meaning of the mole as a spy…”.
[… Mẫn sẽ nói về sau, rằng các ủy ban ở cấp trên quyết định tôi sẽ làm một “mole”. Anh nói bằng một chữ ngữ vựng Anh ngữ mà chúng tôi đã học cách đây không lâu trong khóa học Anh ngữ do một giáo sư dạy, ông thầy có lối dạy vui học dễ nhớ bằng biểu đồ mẫu câu. Một gián điệp nhị trùng? Tôi thốt lên. Một con chuột chũi đào đất ẩn mình?
Còn nghĩa khác là nốt ruồi. Có nghĩa nào khác nữa không?
Dĩ nhiên có. Nói nốt ruồi hay chuột chũi chuyên đào đất làm hiểu lầm ý nghĩa của “mole” là gián điệp].
Nói khác đi, “mole” hay “double agent” hay “a man of two faces” mang nghĩa là gián điệp nhị trùng, là người của kẻ địch được cài cắm vào “phe ta” để hoạt động điệp báo nguy hiểm, đe dọa an ninh quốc gia, gây phương hại rất lớn cho “phe ta”.
Đó là chuyện Anh ngữ. Giờ tới Việt ngữ.
Tại nước mình, chữ “cảm tình viên” được dùng khá lâu từ thời có các đảng phái chính trị – thời chống Pháp, qua thời Việt Minh và nhất là về sau Hiệp định Geneve chia đôi đất nước 1954, ở miền Nam, các chính đảng như Việt Nam quốc dân đảng (VNQDĐ), Đại Việt, Cần lao v.v… đều thích dùng.
Chữ “cảm tình viên” được dùng để trỏ những người bước đầu có ý hướng tham gia chính trị bằng cách gia nhập một đảng phái nào đó mà chưa gia nhập chính thức đảng đó. Ví dụ, người ta nói: “Ông Xoài là cảm tình viên VNQDĐ đó”, tức có nghĩa ông Xoài có khả năng trở thành đảng viên thực thụ của VNQDĐ.
Tuy nhiên cũng lắm khi ông Xoài sẽ thôi, sẽ rút lui không “cảm tình” với VNQDĐ nữa mà chọn đảng khác chẳng hạn. Hoặc cũng có khi ông ta chỉ mãi là cảm tình viên của VNQDĐ, vẫn đi họp, vẫn ủng hộ tinh thần, vật chất gì đó cho VNQDĐ mà không gia nhập VNQDĐ chính thức.
Cách dùng chữ “cảm tình viên” như thế đã thành nếp suốt mấy chục năm dài và chữ đó độc chiếm một ý nghĩa không thể nhầm sang nghĩa khác được nữa. Bên phía đảng Cộng sản, trước và sau 1975, ta cũng thấy họ dùng chữ “cảm tình”, ví dụ: “thằng Mít mới vào cảm tình đảng đó”, có nghĩa là Mít sắp được/ chuẩn bị kết nạp đảng Cộng sản.
Như vậy, xét trong toàn thể của tác phẩm, tựa đề “The Sympathizer” mà dịch thành “Cảm tình viên” là sai lạc, máy móc, tối nghĩa và ngớ ngẩn, người đọc sẽ không hiểu được ý tác giả.
Về cụm từ “Kẻ nằm vùng”. Chúng ta không quên là đang trong bối cảnh của cuốn tiểu thuyết “The Sympathizer”, đó là khoảng thời gian Vietnam War cho tới (chừng) 1979, 1980, thời mà từ ngữ “kẻ nằm vùng” hiện hữu ở miền Nam suốt khi đó.
Thêm nữa, khi đọc trọn tác phẩm, người ta không khỏi ngạc nhiên thích thú và khâm phục một chàng trai chỉ mới lên 3 lên 4 ngày black April 1975 hôm nào mà khi trưởng thành – ở xứ người – đã biết dùng chữ một cách trung thành với bối cảnh lịch sử, tái hiện trung thực bối cảnh miền Nam Việt Nam thời chiến. Đó là từ ngữ “kẻ nằm vùng”.
Để nói rằng, cùng trỏ vào một người-sự việc là “gián điệp nhị trùng”, mà, ta thử kiểm đếm xem trong “The Sympathizer”, Viet Thanh Nguyen đã dùng các chữ sau “spy”, “sleeper”, “spook”, “a man of two faces” và “mole”. Ông không dùng chữ “double agent”, càng không dùng cả chữ “sympathizer”.
Ông chỉ dành riêng “sympathizer” để đặt tựa cho tiểu thuyết, thiển nghĩ, dụng ý dùng từ của ông đã quá rõ, từ này là “kẻ nằm vùng” trong mớ từ kia.
Như vậy “kẻ nằm vùng” là một chữ quá rõ, quá thông dụng, đọc vô ai cũng hiểu ngay và hiểu chính xác vai trò của một gián điệp nhị trùng, hoặc một điệp viên hai mang, như tác giả đã viết giới thiệu ngay từ đầu sách.
LÊ TÙNG CHÂU
cheap clomiphene pills where buy clomid price can you buy clomiphene without a prescription how to buy clomid without prescription cost of clomid tablets clomid pills cheap clomid prices
I’ll certainly return to review more.
This is the gentle of criticism I positively appreciate.
oral rybelsus – cyproheptadine 4mg canada periactin 4 mg uk
buy domperidone generic – order motilium 10mg for sale flexeril sale