Friday, December 13, 2024
HomeBLOGTại sao hàng chục nghìn căn hộ tại Thủ Thiêm không có...

Tại sao hàng chục nghìn căn hộ tại Thủ Thiêm không có người ở? (Phần 1)

Nguyễn Ngọc Già / RFA

Báo Cafef.vn ngày 10/7/2019 đăng bài [1] “Hàng chục nghìn căn hộ không ai ở, bán đấu giá nhiều lần thất bại”, trong đó “không ảnh” cho thấy cả vùng đất rộng lớn nhưng hoang vắng như những “đô thị ma”!

Những hình ảnh đó, kết hợp những khuôn mặt đau đớn cùng dòng lệ ràn rụa đầy phẫn uất của người dân Thủ Thiêm, cho thấy sự dốt nát của Lê Thanh Hải và đồng bọn, khi ra tay tàn phá cả một vùng ngoại ô yên tĩnh và hiền hòa bên kia sông Sài Gòn.

Lê Thanh Hải và đồng bọn cố gắng “trấn” một “đống căn hộ”cho những người dân –  vẫn quen thuộc với “văn hóa nông nghiệp” từ bao đời nay là một thất bại thấy rõ – vốn xuất phát từ lòng tham vô đáy mà gây ra tội ác khó dung thứ!

Văn hóa Việt Nam vẫn là nền văn hóa nông nghiệp.

Loại hình nhà chung cư không phải là sản phẩm do nền “văn minh lúa nước” đẻ ra. Mâu thuẫn tất yếu đó, trở thành mấu chốt góp phần lớn cho ý thức “không gian sống” của người Việt cho đến ngày nay.

Bên cạnh đó, tính tư hữu đã đẩy phần lớn người dân Thủ Thiêm tránh xa “căn hộ”, một khi có đủ khả năng (hoặc vay mượn thêm phần nào đó) để tậu một căn nhà cấp 4, dù tọa lạc trong hẻm nhỏ chen chúc, chật hẹp, nguy cơ cháy nổ, xô bồ, cãi cọ, hoặc đầy tệ nạn xã hội v.v… nó vẫn tỏ ra “hấp dẫn” và quen thuộc hơn.

Khái niệm “chung cư” được sử dụng phổ biến rộng rãi, có lẽ từ sau cuộc tổng tấn công đẫm máu và tàn phá nhiều khu vực tại Sài Gòn vào năm 1968 – biến cố “Tết Mậu Thân”.

Tại Sài Gòn, lúc bấy giờ, chung cư vốn dĩ không phải là sản phẩm được “đẻ ra” dùng cho mua bán, tìm kiếm lợi nhuận. Chiến tranh đã sinh ra nó.

Sau khi đẩy lui các cuộc tấn công, đứng trước nhiều khu phố bị đốt phá, nhiều chục ngàn người dân mất nhà, chính quyền VNCH nhanh chóng xây trên một số khu vực một loại nhà từ những mảnh đất hình chữ nhật khoảng 5.000 m2 – 10.000 m2, 1 trệt 3 lầu. Mỗi tầng khoảng 40 – 60 gian phòng, mỗi gian khoảng 30m2, với vách ngăn bằng gạch 4 lỗ.

Mục tiêu là bảo đảm thời gian ngắn nhất để an sinh cho người dân tức thời.

Cần nhắc lại yếu tố khách quan về kỹ thuật và vật liệu trong xây dựng của gần 50 năm trước còn lạc hậu, nó trở thành trở ngại lớn khi rút ngắn thời gian hoàn thành.

Với yêu cầu khẩn như thế, từng khoảnh đất lớn của các khu vực trong thành phố, một loại nhà như miêu tả (thô kệch, khô khan và đầy chất dã chiến) mọc lên hàng loạt; không cần mỹ thuật, không có tiện ích gì khác ngoài cầu thang bộ dẫn lên các tầng trên, có điện nước, mỗi nhà chỉ có một phòng vệ sinh, đồng một diện tích (3mx10m).

Mỗi tầng như thế là 4 mặt tiền hướng ra bốn hướng, hình chữ nhật, đều tăm tắp, cùng một kiểu cửa sổ cửa cái, một màu sơn, hàng lang bộ (khoảng 2m) dài dằng dặc, giúp cho cư dân có thể đi thông thống và vòng quanh, từ nhà mình, ngang qua trước cửa nhà hàng xóm.

Những người dân thời đó được báo ở tạm trong khoảng 5 – 7 năm để chờ một chính sách dài hạn, quy củ hơn từ phía chính quyền, sau khi chiến tranh chấm dứt.

Quá trình ở như thế bắt đầu cho những cuộc sống của các gia đình “cháy nhà” (từ được dùng vào lúc bấy giờ) từ năm 1970 cho đến (tất nhiên) 1975.

Quá trình ở “tạm bợ” chờ chiến tranh kết thúc, đã nảy sinh tâm lý “ăn nhờ ở đậu” từ “hội chứng chiến tranh” lan tràn, làm cho”văn hóa chung cư” nhếch nhác, ồn ã, xô bồ!

Vết tích của loại hình nhà này còn in dấu nhiều nơi hiện nay tại Sài Gòn với tên gọi: Chung cư Sư Vạn Hạnh (trước 1975 gọi là c/c Ấn Quang), Chung cư Ngô Gia Tự (trước 1975 gọi là C/c Minh Mạng), Chung cư Nguyễn Kim, Chung cư Nguyễn Thiện Thuật và nhiều khu khác trong nội hạt thành phố, chỉ bao gồm các quận nội thành lúc bấy giờ. Các khu vực Tân Bình, Bình Thạnh, Gò Vấp, lúc đó gần như được xem là khá xa trung tâm, gần với ngoại ô nhiều hơn.

Cuộc sống xô bồ, thắc thỏm, bất an do chiến tranh mang lại, khiến những khu chung cư này không phải là nơi “đất lành chim đậu” như dân Sài Gòn mong muốn. Nó đã bị chiến tranh cộng với cuộc sống nơm nớp làm méo mó và nhịp sống người Sài Gòn trở nên vội vã hơn nhiều người tưởng, khi bước chân vào chỗ ở mới. Vì vậy người Sài Gòn đành chấp nhận một cuộc sống tạm bợ mà người ta nghĩ chỉ là nhất thời.

Tuy nhiên, những người bám trụ lại các chung cư dã chiến như thế, đa số là người lao động bình dân.

Những người không chấp nhận lối sống tạm bợ và quá hỗn tạp là người lao động trí óc. Giới “lao động trí óc” quyết “sang tay” căn chung cư được cấp.

Những người nhận việc “sang nhượng” một phần là người lao động chân tay, buôn bán nhỏ bình dân và một phần là dân ngoại ô, “dân tản cư” từ các vùng chiến sự của miền Nam khi xưa, người ta dạt về trung tâm Sài Gòn để tránh bớt nguy hiểm đối mặt hàng ngày, nếu có thể.

Chiến tranh kết thúc vào 1975. Cuộc sống tại các chung cư vẫn tiếp diễn như bấy lâu nay. Sau 1975, thị trường chung cư vẫn tự phát và sơ khai.

Cuộc sống bao cấp với “sổ gạo”, “tem phiếu” v.v… từ miền Bắc tràn vào và lên ngôi, người Sài Gòn ngẩn ngơ với biết bao điều vừa lạ vừa…”kỳ” mà lặng lẽ làm quen và thích nghi dần, một khi họ không thể tính chuyện vượt biên hay một cách gì hay hơn được!

Song song với “lịch sử chung cư Sài Gòn” như miêu tả trên, thì những khốn cùng của những khu nhà tập thể thời bao cấp ở Hà Nội mà nhắc tới môi trường sống bát nháo, hỗn độn, nhếch nhác theo kiểu “cha chung không ai khóc”, có lẽ nó ám ảnh triền miên và kinh hoàng trong hàng chục năm, nên Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường nhận định [2]: “Về bản chất, chung cư là phục vụ cho tầng lớp những người có thu nhập trung bình và thấp”. Điều đó cho thấy người CSVN vẫn nhìn chung cư rất rẻ rúng, mặc dù hầu hết họ đều từ “bùn” mà “đứng dậy sáng lòa” trong hiện tại (!).

Chung cư ngày nay

Ngày nay, chung cư có thể lên đến 20 tầng, 30 tầng, 40 tầng.

Không gian sống như vậy, không bao giờ phù hợp nổi với tầng lớp nghèo, mưu sinh hàng ngày, dù cho đó là một chị bán xe bánh mì hay một anh chạy xe chở hàng, dù cho đó là một người bán trái cây hay một cô bán thịt cá v.v… bởi những người dân đó cần những không gian vừa ở, vừa tiện cho việc vận chuyển, chứa hàng hóa, kể cả tiết kiệm chi phí sinh hoạt tối đa.

Lê Thanh Hải và đồng bọn vì “ăn trắng mặc trơn” bằng những đống tiền tham nhũng khổng lồ, nên không bao giờ hình dung nỗi hình ảnh một chị bán xe bánh mì hay một người bán trái cây v.v… mỗi ngày vào thang máy lên tầng 10 (đã xảy ra tại chung cư Miếu Nổi 18 tầng, Q. Bình Thạnh, Tp.HCM) với vật dụng lỉnh kỉnh, bộn bề, khó xoay trở trong phạm vi thang máy có hạn!  Trước sau gì, những người lao động bình dân cũng buộc tìm cách “chuyển giao” sự “vô duyên” đó. Một trong các cách đơn giản nhất là bán đi, tìm một căn nhà nhỏ khác, phù hợp việc mưu sinh.

Ngoài những bất tiện như trên; đối với người làm công, công chức – viên chức, cả những người lao động trí óc; thử hỏi bằng đồng lương eo hẹp, những khoản phí cho đội bảo vệ, bơm nước, điện thang máy, giữ xe, thắp sáng công cộng, vệ sinh khu vực sân, sảnh chung v.v… không lẽ không trở thành gánh nặng mà họ chưa thật sự cần đến, cho cuộc sống còn quá nhiều khó khăn?!

Thay vì chi trả cho những khoản phí đó, người ta dễ dàng chấp nhận để trước nhà xấu xí một chút bằng những bịch nilon chứa rác, chờ công nhân vệ sinh đến lấy đi với mức phí khoảng 30.000 đồng/tháng, họ có thể nằm ngủ cạnh 2 chiếc xe gắn máy cà tàng trong gian nhà nhỏ hẹp để không phải tốn phí gửi xe, họ cũng chẳng cần vườn hoa hay khu vực sân chung mỗi tối ra dạo mát, hàn huyên tâm sự chòm xóm để phải tốn phí dọn sân, tốn điện thắp sáng khu vực v.v… Nói chung, họ chấp nhận tiết giảm tối đa mọi khoản chi phí nhằm tiết kiệm lo cho gia đình và bản thân.

Nhu cầu giao lưu hàng xóm, một nét có thể gọi là “văn hóa nông nghiệp” người Việt, vừa không cần phải tốn tiền (như phân tích trên) vừa phù hợp theo góc nhìn không lạnh lùng với láng giềng như tục ngữ “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán bà con xa mua láng giềng gần” v.v… là nhu cầu có thật. Không gian chung cư hiện đại ngày nay tỏ ra không phù hợp với nhu cầu này!

Ngoài việc tiết giảm chi phí hàng ngày càng nhiều càng tốt, không gian chung cư ngày nay không đáp ứng sự “gần gũi” “thân tình”, bởi mỗi tầng chỉ có một số căn hộ nhất định (thường là 6 – 8 căn/tầng), và mỗi căn hộ đều khép kín, khi từ thang máy bước ra. Đây cũng là một nét đặc sắc của loại hình chung cư ngày nay, bởi nó ảnh hưởng từ văn hóa phương tây, thông thường được thiết kế theo dạng các khách sạn. Mỗi nhà hầu như tự thu xếp với nhau trong không gian sống riêng. Chính điều này trở nên gò bó và co cụm đối với người lao động nghèo cần hàn huyên, than vãn và chia sẻ, cảm thông với nhau.

Một nét văn hóa khác nữa, đó chính là tang chế. Một người thân trong gia đình “thu nhập trung bình và thấp”, khi mất đi trong chung cư, không phải là mối bận tâm của Lê Thanh Hải và đồng bọn, bởi những món tiền tham nhũng khổng lồ đã lấn át hết lý trí và “tình đồng bào” của chúng, mà lẽ ra buộc phải yêu cầu kiến trúc sư tính tới trong thiết kế, theo phong tục ma chay của người Việt.

Đa số các chung cư tại Thủ Thiêm hiện nay, bọn tham nhũng không thèm nghĩ đến nhà công cộng cho 3 ngày quàn người mất tại gia, chúng cũng không quan tâm tới việc, làm sao đưa một chiếc quan tài từ tầng 25 hay 38 gì đó vào trong thang máy để đi chôn hay thiêu (!).

Sẽ ” rất buồn” và… “chết cười” nếu như nhắc thêm dàn kèn trống ầm ĩ và rong ruỗi trên đường đi tới nghĩa trang, trở thành “nhu cầu”… dứt khoát phải có trong ma chay! Thật nan giải đối với chung cư thời nay!  Và thế, những ai “chuộng” loại hình đám ma thế này sẽ giải quyết ra sao, nếu ở chung cư hiện đại?

Bên cạnh đó, các hủ tục như: đốt vàng mã vào ngày lễ tết, cúng cô hồn, giỗ quảy v.v… có thể sẽ làm cho hệ thống báo cháy một phen hú hồn cùng những nỗi nháo nhào, bực mình cho cả ban quản lý, đội bảo vệ và cư dân v.v…

Đã nói tới cái chết bất tiện cho những cuộc đưa ma từ chung cư hiện nay, thì cũng nên nhắc về cái vui, đó là … đám cưới!

Với phong tục cưới hỏi còn nặng màu sắc văn hóa nông nghiệp (lễ mễ, cầu kỳ, mâm quả, rước dâu, ăn hỏi v.v…) nó trở thành một thách đố quá sức tưởng tượng về không gian chỉ khoảng 50 – 60 m2, buộc phải chứa đựng khoảng vài chục người để đứng đón tiếp và cô dâu, chú rễ phải vái lạy tổ tiên ông bà trước khi “đưa nàng về dinh” (sau này ít nhất là ra nhà hàng với “công nghệ tiệc cưới” trở nên vô hồn và đầy chất ăn nhậu, mất tính thiêng liêng và nồng ấm của ngày vui trọng đại đời người!)

Thế nên, nếu Lê Thanh Hải và đồng bọn có đủ lương tâm nghĩ đến xây một chung cư còn phải phục vụ cho cả những người khuyết tật trong việc di chuyển, những trường hợp cấp cứu y tế là điều “không tưởng” đối với những bộ não chỉ biết “ăn tàn phá mạt”!

Một nét “văn hóa nông nghiệp” nữa, không thể không nhắc tới, đó là “văn hóa ăn uống”.

Người thu nhập trung bình và thấp vẫn có nhu cầu tụ họp anh em, bè bạn cho những giỗ chạp, lễ tiết, mừng nhà mới, thăng tiến trong nghề nghiệp v.v… Do đó, họ có quyền tổ chức ăn mừng tại gia.

Với không gian nhỏ hẹp, đó không phải là nơi cho những chú gà, chú vịt còn sống hay con cá tươi mua nguyên con từ chợ về để “tiến hành một cuộc”… nhổ lông cắt cổ, nạo vảy, cắt tiết v.v… như ở dưới quê! Đó là chưa kể, những màn “hậu ăn nhậu” như: karaoke, hát với nhau ồn ào, hỗn loạn, thậm chí có thể dẫn đến ẩu đả, chết người v.v…

Không thể chối cãi “văn hóa ăn nhậu” kiểu Việt Nam hiện nay đã trở thành cản ngại quá lớn cho ai muốn một cuộc đổi đời hiện đại về chỗ ở, từ các căn chung cư!

Rõ ràng, chung cư ngày nay đã quá khác xa, trong khi Lê Thanh Hải và đồng bọn không hề màng đến các yếu tố văn hóa, lịch sử Việt Nam mà chỉ thuần túy chạy theo món tiền “tham nhũng khổng lồ” để xây… một “đống” căn hộ ngất ngưởng cao và giờ đây, chúng nhỏ “những giọt nước mắt cá sấu”, càng khiến người dân thêm phẫn nộ và căm ghét…!

(Còn nữa)

Tại sao hàng chục nghìn căn hộ Thủ Thiêm không ai ở ? (Phần 2)

__________________

Nguyễn Ngọc Già

[1] http://cafef.vn/toan-canh-khu-tai-dinh-cu-do-so-nhat-tphcm-hang-chuc-nghin-can-ho-khong-ai-o-ban-dau-gia-nhieu-lan-that-bai-20190710004556515.chn

[2] https://www.danluan.org/lien-ket/20111220/gs-dang-hung-vo-nhan-dinh-thi-truong-chung-cu-se-vo-tran

RELATED ARTICLES

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular