HomePHÁP LUẬTĐOÀN VĂN SÁNG HAY LÀ SỰ TẦM THƯỜNG CỦA CÁI ÁC.

ĐOÀN VĂN SÁNG HAY LÀ SỰ TẦM THƯỜNG CỦA CÁI ÁC.

NGUYEN DUC THANH
(Hannah Arendt, W. E. B. Du Bois, Michel Foucault và Sigmund Freud đồng thời ghé thăm Việt Nam).
Vụ án xảy ra tại Lạng Sơn vào đầu năm 2025, khi Nguyễn Xuân Đạt, sau nhiều năm chủ động tìm kiếm, đã được Đoàn Văn Sáng đáp ứng “ý nguyện” cuối cùng: bị chặt đầu trong lúc đạt cực khoái, sau đó cơ thể bị xẻ thịt, nấu nướng và ăn lẩu. Toàn bộ quá trình được ghi lại tỉ mỉ rõ ràng trong các video đặt sẵn từ các góc khác nhau, trong một căn phòng tồi tàn hơi chật chội, rồi được phát tán rộng rãi vào mùa hè cùng năm. Ai chẳng may xem các clip ấy, sẽ chấn thương tinh thần mãi mãi.
Đoàn Văn Sáng không phải kẻ vô gia cư, không phải kẻ bị bất công xã hội đẩy tới đường cùng, không phải kẻ nổi loạn, lại càng không có hình hài của quỷ dữ hay uy quyền của một báo chúa khát máu. Ông là cán bộ nhà nước, từng lãnh đạo Đội Quản lý Thị trường Lạng Sơn, vừa được bầu làm Chủ tịch dòng họ Đoàn ở tỉnh, có gia đình, con cái, và được cộng đồng địa phương kính nể. Ông có giọng nói ấm áp, ăn nói hóm hỉnh và chân tình. FB cá nhân đăng hình ông đứng cùng vợ và hai người con trai đã lớn. Ông tự miêu tả ông là một người chân tình, thương người, tôn trọng sự khác biệt.
Dường như sự khác biệt mà ông hàm ý, bắt nguồn từ mong muốn được mọi người cùng tôn trọng rằng ông là người đồng tính nam sống kín. Nhưng đó chỉ là hàm ý sâu kín của ông mà thôi.
Khi nhìn vào trường hợp Đoàn Văn Sáng qua lăng kính Hannah Arendt, điều khiến ta rùng mình không phải là sự quỷ quyệt độc ác hay bạo tàn cuồng nộ, mà chính là sự vắng mặt gần như hoàn toàn của tư duy phản tỉnh – thoughtlessness (sự-không-còn-suy-nghĩ). Trong tác phẩm Sự tầm thường của cái ác, Arendt từng nhận xét về Adolf Eichmann rằng ông ta không ác độc theo nghĩa cổ điển, không thù hận người Do Thái, không khát máu và khao khát trả thù; ông chỉ đơn giản là không còn suy nghĩ. Ông ký giấy, đếm đủ số người, sắp xếp các chuyến tàu, hoàn thành “nhiệm vụ” với ngôn ngữ quan liêu rỗng tuếch để không phải đối diện với thực tế hàng triệu con người đang bị đẩy tới những lò thiêu.
Đoàn Văn Sáng cũng vậy. Ông không giết người vì thù hận cá nhân, không vì tiền bạc hay khao khát trả thù. Ông chỉ “thực hiện đúng ý nguyện” của một người khác, như thể đó là một giao kèo riêng tư, một thủ tục ân cần do bạn bè giao phó. Việc thử đi thử lại cuộc hành quyết cho kỹ càng, nhằm đảm bảo đầu của Đạt chắc chắn phải được chặt phăng, đặt máy quay phim cẩn thận từ các góc dễ nhìn, rồi đăng tải lên nhóm kín như một sự báo cáo công việc đã hoàn thành,… cho thấy một mức độ thoughtlessness cao độ. Đoàn Văn Sáng không tưởng tượng được rằng những hình ảnh ấy sẽ làm vỡ tan đời sống của bao người, rằng chúng sẽ trở thành một sang chấn tập thể. Ông hành động trong một thế giới riêng, nơi mọi chuẩn mực nhân văn đã dừng lại bên ngoài, và điều đó, theo Arendt, chính là hình thái hiện đại nhất của cái ác – không cần quái vật dữ dằn như trong ác mộng, không cần ác quỷ hùng vĩ và khủng khiếp, chỉ cần một con người bình thường NGỪNG SUY NGHĨ.
Nhưng tại sao một người có vẻ ngoài hoàn toàn “bình thường” lại có thể bước qua lằn ranh ấy một cách nhẹ nhàng đến thế?
W. E. B. Du Bois, trong The Souls of Black Folk (1903), đã mô tả trải nghiệm double consciousness – ý thức kép – của cộng đồng người da đen tại Mỹ: luôn phải nhìn chính mình qua đôi mắt của một xã hội khinh miệt, luôn mang trong mình hai linh hồn không hòa hợp, bị ngăn cách bởi một tấm khăn voan (veil), tấm màn chỉ cho phép nhìn một chiều từ bên trong ra, và bên ngoài nhìn vào không thấy gì. Với người ngoài (ở đây là cộng đồng người da trắng), thì những người da đen phải hành động ở bên ngoài tấm veil y như những người da trắng đang nhìn. Nhưng đằng sau tấm vail, là cả một thế giời mà những người da đen đang sống và muốn sống. Họ bị giằng co giữa hai linh hồn hay luôn trong trạng thái “ý thức kép”, họ phải có cả hai, họ không muốn mất cái nào hết. Bên ngoài tấm veil giúp họ sống. Bên trong tấm veil là chính họ, là thực sự sống. Nhưng hai thế giới đó bị phân tách, chỉ bằng một tấm khăn voan, nhưng xa nhau thăm thẳm.
Khái niệm này có thể mở rộng một cách chính xác đến những người đồng tính nam sống kín tại Việt Nam hiện nay. Đoàn Văn Sáng sống với hai tâm hồn cùng lúc: một tâm hồn công dân lý tưởng trong xã hội nam quyền, cán bộ nhà nước mẫu mực, một tộc trưởng được kính trọng, một người cha của những đứa con trai; đồng thời, ông sống với một tâm hồn khác, của một người đồng tính nam, bị che khuất sau tấm veil của kỳ thị ngầm, không bao giờ được xã hội thừa nhận, ít nhất là ông hiểu và chấp nhận như thế.
Từ bên trong tấm veil ấy, ông nhìn ra thế giới bên ngoài bằng con mắt méo mó, phòng bị, mặc cảm và cô đơn. Trong khi đó, thế giới bên ngoài không bao giờ thực sự nhìn thấy ông qua tấm veil, thậm chí không muốn nhìn qua, dù biết đằng sau tấm veil ấy là một thế giới khác. Đó là nỗi đau đớn của đại đa số, nếu không muốn nói là tất cả, những người đồng tính trong xã hội Việt Nam, cũng như trong nhiều, rất nhiều xã hội khác, trong suốt lịch sử “văn minh” của loài người, cho đến tận bây giờ.
Sự phân cách mênh mông qua một tấm voan mỏng manh nghiệt ngã này tạo ra một khoảng trống nội tâm thăm thẳm, nơi khả năng phán đoán đạo đức dần tê liệt và hoàn toàn biến mất. Double consciousness không chỉ là gánh nặng; nó còn là một cơ chế tự vệ: để tồn tại, người ta học cách tách biệt hai thế giới, và dần dần, thế giới bí mật trở thành nơi duy nhất mà bản năng nguyên thủy được phép thở hơi thở của chính mình. Đó là các nhóm kín trên mạng xã hội, nơi Đoàn Văn Sáng có thể tham gia dưới một nick ảo.
Tôi muốn nhắc tới Michel Foucault như một cước chú bổ sung thêm một tầng giải thích mang tính cấu trúc. Trong xã hội Việt Nam đương đại, discourse (diễn ngôn) về gia đình “chuẩn mực”, về “đạo đức cách mạng”, về hình ảnh “cán bộ nhà nước”, về “nam quyền”, “tính đàn ông”, về “thành đạt”, về “hạnh phúc”… vẫn ngầm định vị đồng tính luyến ái như một điều bất hạnh, như một dạng lệch lạc cần được che giấu hoặc chữa trị. Quyền lực bao trùm ở đây không hoạt động bằng roi vọt mà bằng sự sản xuất không ngừng các chuẩn mực và sự tự kiểm soát. Không có xiềng sắt, không có xà lim, không có dây trói, gông cùm, nhưng quyền lực đè nặng lên và xiết chặt những người như Đoàn Văn Sáng còn hơn cả Ngũ Hành Sơn đè lên Tôn Ngộ Không.
Đoàn Văn Sáng đã nội hóa hoàn hảo chuẩn mực bề mặt, đến mức trở thành hình mẫu xã hội. Nhưng chính sự nội hóa ấy lại đẩy phần còn lại của con người ông vào những vùng tối sâu thẳm đặc quánh sau tấm vail mong manh nhưng tàn nhẫn. Chỉ trong những group chat kín, hiện ra dưới nick ảo, nơi discourse chính thống không còn hiệu lực, ông được là chính mình. Ở đó, dục vọng không còn bị kìm nén mà được tung hoành, được phóng chiếu, nơi Đoàn Văn Sáng có thể trải nghiệm những khoái cảm nguyên thủy nhất – có thể truy nguyên về những lớp vô thức sâu thẳm mà Freud gọi là id: bản năng ăn thịt đồng loại, sự thống trị tuyệt đối, không còn ranh giới giữa ta và người, giữa thiện và ác, mọi chuẩn mực xã hội bị xé tan.
Khi tấm veil của double consciousness gặp vùng tối do discourse quyền lực tạo ra, và khi thoughtlessness của Arendt ngăn cản mọi tự vấn đạo đức, thì dục vọng hồng hoang từ đáy sâu thẳm nhất của giống loài, thậm chí từ trước khi chập chững trở thành con người, trước khi mọi đạo đức hay chuẩn mực xã hội từng tồn tại, được giải thoát như hung thần khổng lồ thoát ra từ cái chai bị nút kín ngàn năm nằm dưới đáy đại dương. Mọi thứ đều có thể xảy ra mà không có bất kỳ một giới hạn nào liên quan đến cái gì thuộc về con người. Quỷ dữ của quỹ dữ hiện hình trong bộ dạng thật bình dị, một con người như bao người khác. Cái ác tột cùng lại bộc lộ trong tất cả sự bình thường dưới hình hài một con người đầy chuẩn mực. Đó chính là sự tầm thường, vô cùng tầm thường của cái ác, dù đó là cái ác tột cùng.
Vụ án này, vì thế, không phải là câu chuyện về một con quái vật lạc loài, một con quỷ đội lốt người. Nó là câu chuyện về chính chúng ta – về khả năng kinh hoàng của cái ác ngủ yên trong sâu thẳm đen tối nơi mỗi con người, từ trong tiếng vọng xa xăm nhất trước khi giống loài mang tên người xuất hiện. Chỉ cần điều kiện xã hội và nội tâm thích hợp là nó có thể thức giấc. Như vị thần trong cái chai bị nút kín mà bao nhiều thế hệ đã cố gắng chôn vùi.
Arendt từng viết về Adolf Eichmann, mà bà gọi là sự tầm thường của cái ác, bằng giọng trầm tĩnh, can đảm và nhân văn sâu sắc, gửi ra từ phòng án xử tội chống lại loài người ở Israel, giữa làn sóng gào thét đòi trả thù của người Do Thái trên khắp thế giới. Thông điệp của bà là: điều đáng sợ nhất không phải nhân loại đã sinh ra những kẻ như Eichmann, mà vì sao Eichmann lại giống mỗi chúng ta đến thế.
Hôm nay, tại Việt Nam, công dân Đoàn Văn Sáng, trong chuỗi hành động tột cùng vô nhân tính, chính là sự nhắc lại đau đớn bi thảm nhất lời cảnh báo của Hannah Adrent hơn nửa thế kỷ trước. Một người đàn ông tầm thường, hình hài bình dị, bị phân đôi bởi tấm veil của kỳ thị tinh tế nhưng quyết liệt, bị đẩy lui về tới vùng đen tối nhất trước cả khi linh hồn con người xuất hiện, dưới mạng lưới discourse quyền lực mang tính cấu trúc bủa vây tầng tầng lớp lớp của xã hội, và cuối cùng đánh mất hoàn toàn khả năng suy nghĩ và tính chất xã hội của giống loài – đã bước qua lằn ranh mà bất cứ ai trong chúng ta, trong những hoàn cảnh tương tự, cũng có nguy cơ bước qua.
Chỉ có tư duy phản tỉnh không ngừng, chỉ có sự dũng cảm xé bỏ tấm veil và thay đổi những diễn ngôn tinh vi đã biến thành ý thức tập thể, mới giúp chúng ta tránh được việc một ngày nào đó lại kinh hoàng đối diện với một Đoàn Văn Sáng khác – hay khủng khiếp hơn, nhìn thấy chính mình trong clip.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here