LÃ MINH LUẬN
(Phần một)
I. NHẠC VÀNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NGƯỜI ĐAM MÊ
Vụ án cười ra nước mắt của một nhân vật, một số phận mong manh, nhỏ bé mà mang chứa dấu ấn ẤU TRĨ của cả một thời kì lịch sử, mà tôi sắp kể cho các bạn nghe sau đây, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, xin mượn mấy câu Kiều để nói về vụ án oan khuất của Lộc Vàng và các bạn của anh, chỉ vì mê hát nhạc vàng mà bị bọn sai nha bắt bớ, kết án một cách tàn bạo. Nó đúng nghĩa là một vụ án “Rường cao rút ngược dây oan…, Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây… Oan này còn một kêu trời nhưng xa…” Làm cho khốc hại chẳng qua vì… nhạc vàng.

Đúng vậy, người ta bị đẩy vào chốn tù đày là vì phạm pháp hay hoạt động chính trị nhưng anh Lộc Vàng không vướng vào những thứ đó mà chỉ đơn giản là… mê hát nhạc vàng. Chỉ vì mê hát nhạc vàng mà anh phải trả giá quá đắt bằng 14 năm tù oan sai, bằng một thời trai trẻ đầy tài năng, đầy khát vọng và năng lượng làm việc, cống hiến. Anh tên đầy đủ là Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1945 tại Hà Nội, bạn bè gọi anh là Lộc Vàng.
Vì sao bạn bè gọi anh là Lộc Vàng? Vì anh hát nhạc Vàng (khác với nhạc Đỏ) và chất giọng của anh cũng là “giọng ca vàng” đích thực của những “đàn ca tài tử” những năm 60 – 70 của thế kỉ trước. Lộc Vàng xuất thân từ một người lao động bình thường nhưng trời phú cho anh một giọng ca tuyệt hảo, một tâm hồn nghệ sĩ nhưng vì sao chỉ đam mê hát nhạc vàng thôi mà anh bị chính quyền cộng sản lúc bấy giờ đẩy anh vào chốn lao tù chừng ấy năm trời? Đó mới là vấn đề tôi và bạn phải tìm hiểu và khóc cười cùng anh.
Nhạc Vàng là một thứ nhạc giản dị nhưng tình tứ, phong nhã, phong lưu. Song nó cũng giống như thơ nên không phải ai cũng có thể cảm nhận được. Nó thuộc dòng tân nhạc, xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1930, giai điệu du dương, nền nã, êm ái… bổng trầm, tha thiết theo tiếng lòng, con tim của tình yêu đôi lứa và nỗi buồn thăm thẳm của những kiếp nghèo. Khác với những loại hình truyền thống (chèo, tuồng, cải lương, xẩm, xoan…), nhạc vàng là tân nhạc văn minh, những sáng tác dựa trên 7 nốt nhạc (đồ, mi, pha, son, la, si, đô) của nền nhạc phương Tây, châu Âu như Valse, Bolero, Rumba, Ballade… Đôi khi, nhạc vàng còn được dùng chỉ các bài hát thời tiền chiến hay tình khúc (1954-1975), do các nhạc sĩ nổi tiếng như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương, Đoàn Chuẩn, Phạm Duy… sáng tác.
Những người sáng tác và hát nhạc vàng, nghe nhạc vàng thời đó cũng giống như dân gian sáng tạo ca dao, dân ca để mà hát cho nhau nghe, mà ru tâm hồn mình sau những giờ lao động cực nhọc hay để giải toả nỗi u sầu nhân tình thế thái mà thôi. Nó là tiếng hát của tâm hồn NGƯỜI, đến muôn loài cũng còn có tâm hồn và tiếng hát riêng chứ đâu chỉ con người mới có… Ấy vậy mà làm sao Nhạc Vàng lại bị những âm hồn bần cố trỗi dậy sau Cách mạng ruộng đất phán xử nó là loại nhạc phẩm đồi trụy, bi luỵ, nhuốm màu sắc cá nhân, ăn chơi đàng điếm nhỉ…? Kết tội nó là thứ nhạc của Mỹ Nguỵ, của phương Tây chỉ đưa thanh niên đi vào chủ nghĩa cá nhân, ham chơi, lười biếng, xa dời lao động và chiến đấu, nhất là thời kì đang chiến tranh “chống Mỹ xâm lược”. Phải chăng những âm hồn ấy đơn giản chỉ là cây gậy và củ cà dốt không tim? Với cách cảm và nhận thức cạn hẹp, cầm tù, duy lí của giai tầng lãnh đạo xuất thân từ đẳng cấp thấp, bần cố ấy thì làm sao cảm được vẻ đẹp của trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Nhất là những âm điệu, giai điệu du dương, tha thiết… thấm đẫm khúc nhạc hồn người của đẳng cấp cao siêu? Thế nó mới thành chuyện…
Và cũng than ôi! Chính cái chất trữ tình, chất nhân văn thấm đẫm tình người, tình tứ của dòng tân nhạc ấy mà nó đã làm Lộc Vàng mê đắm và chính nó cũng khiến cuộc đời anh cùng bao người khác phải khốn đốn nhưng lỗi đâu phải do nhạc mà do nhận thức của con người, của ý thức hệ tư tưởng… Thế nên, Lộc Vàng đã từng hát, hát hết mình, đã từng chết điếng một lần và nay vẫn hát – hát hiên ngang, kiêu hãnh đầy thách thức. Nhớ lại ngày xưa thời trai trẻ, nếu ban ngày anh và nhóm hát của anh phải cố gắng lao động để kiếm miếng ăn thì ban đêm các anh lại dành hết tâm hồn mình cho tiếng hát. Hát say sưa, hát cho nhau nghe vô tư, trong sáng và… “lén lút”. Các anh đâu ngờ sự đam mê hát nhạc vàng của mình lại là cái hoạ lớn đang rình rập đổ sập, xé nát những đời trai…
II. “VỤ ÁN LƯU MANH, ĐĨ ĐIẾM, CỜ BẠC”
Thế rồi, vào một ngày cuối năm 1967, Lộc Vàng và nhóm của anh tụ tập hát ở nhà một người bạn để hát thì bị công an ập tới bắt lúc 2h sáng. Bảy người bị bắt, bao gồm 1 tay đàn guita, 1 tay kéo Accordion, 1 tay trống, 3 giọng hát và 1 khán giả (nghe).
“Vụ án nhạc vàng” được thổi bùng lên trên các loa, đài phát thanh và các tờ báo, từ một vụ án vô danh của mấy kẻ tiểu tốt thành Vụ án hình sự, chính trị – “lưu manh, đĩ điếm, cờ bạc”. Suốt gần 3 năm tạm giam tại Hoả lò, Hà Nội, đêm đêm các anh bị người ta dựng dậy đi cung và luôn cần có 3 người để hỏi:
Người hỏi về tiền: Hát để làm gì? Lấy tiền ở đâu để hát, để ăn chơi? Ai cho?
Người hỏi về âm nhạc: Nhạc vàng, nhạc tiền chiến nội dung nó thế nào? Của ai?
Người hỏi về chính trị: Ai cho tiền đi hát? Ai đầu vụ? Ai xúi giục? Cứ thế…, ba năm đói, no, ấm, lạnh, đoạ đày rã rời tinh thần, thân xác mấy kẻ mê hát nhạc vàng.
Bắt thì dễ, thả thì khó. Không có chứng cứ thì ra toà sao được? Không có chứng cứ thì tạo ra chứng cứ. Rồi một ngày, người chấp pháp gọi Lộc Vàng và nhóm hát của anh lên, nói là Bộ Văn hoá muốn thu âm những bản nhạc mà các anh hay hát để làm tài liệu nghiên cứu và rút kinh nghiệm. Thế là nhóm được rước đến Nhà hát lớn thu âm. Hôm ấy, tất cả các nhạc sĩ có tên tuổi, các ban bệ trong Bộ Văn hoá thông tin… được mời đến nghe và thẩm định. Họ thu 10 bài, Lộc Vàng hát hết mình như chưa bao giờ được hát. Nhưng anh và nhóm hát đâu có ngờ được đây là tang chứng vật chứng để xử án và tất nhiên nó phải được bóp méo trước khi mang ra làm chứng tại toà. Cái chất tình tứ du dương, tha thiết của thứ nhạc phong lưu mà Lộc Vàng đã trút cả hồn mình vào đó bỗng trở thành những âm thanh rọt rẹt, run rẩy, thê lương trong ngày xử án khiến Lộc Vàng đau đớn, sững sờ. Có thế nó mới ra cái chất bi luỵ, đồi truỵ, đĩ điếm chứ! Có thế nó mới xứng là chứng cứ “hùng hồn” để buộc tội các anh chứ! Cái cú lừa ngoạn mục của các nhà chức trách này đã đẩy cuộc đời các anh tới tận cùng cay đắng, thê thảm…
Suốt 3 ngày xử án, quán nước vỉa hè nào ở Hà Nội cũng xôn xao, rôm rả bàn tán “Vụ án lưu manh, dĩ điếm, cờ bạc” chứ đâu phải là “Vụ án hát nhạc vàng”. Vụ án được tất cả xã hội đồng thanh tương ứng thổi bùng lên thành vụ án TIÊU ĐIỂM cho tất cả các cấp, các ngành phải học tập rút kinh nghiệm và mới đủ sức răn đe những kẻ nào còn thích hát, thích nghe nhạc vàng.
Ba ngày phán xử (6, 7, 8 tháng 1 năm 1971) là 3 ngày đi vào lịch sử ấu trĩ của Bộ Văn hoá, Thông tin và tuyên truyền… Là 3 ngày vùi dập những tài năng, những tâm hồn vô tội – Tiếng oan dậy đất, loà mây mà không thể kêu trời. Để xử vụ án “thành công tốt đẹp”, người ta phân nhiệm rất rõ ràng, chặt chẽ:
– Công an thì có nhiệm vụ tạo chứng cớ giả, chỉnh sửa, bóp méo sao cho chứng cớ phải phù hợp với tội trạng, đồng thời dẫn giải và đánh hộc máu mồm, máu mũi (nếu tội nhân “ngoan cố”) và Lộc Vàng đã được nếm trải vì tuổi trẻ ngây thơ, bồng bột.
– Toà án thì có nhiệm vụ vu khống, buộc tội, luận tội, kết tội, tuyên án sao cho tội nhân không thể kêu ca, kháng án…
– Báo chí thì có nhiệm vụ loan tin, bịa tạc, thêu dệt… sao cho vụ án thật giật gân, li kì, rậm rạp để báo vừa bán chạy, vừa làm cho đám dân chúng phải tin, nghe và tránh xa thứ nhạc đồi trụy đó.
Và thế là “Vụ án nhạc vàng” đã bị người ta đẩy đi xa mãi, xa mãi…! Xé to, thổi bùng mãi ra thành vụ án chính trị – “Vụ án lưu manh, đĩ điếm, cờ bạc”. Người ta luận tội, kết án nhạc vàng là thứ ấn phẩm dâm ô, trụy lạc, phản động của Mỹ Nguỵ, của phương Tây, của gián điệp… nhằm ru ngủ tinh thần đấu tranh cách mạng, phá hoại nền Văn hoá truyền thống của dân tộc… Khép tội người hát là những kẻ chống đối cách mạng, phản quốc… Để cho tội trạng của mỗi người nặng kí hơn, người không đảo ngũ cũng khép tội đảo ngũ; người chăm chỉ lao động cũng khép tội bỏ việc, lười biếng, ăn chơi đàng điếm; người không ăn cắp cũng buộc tội ăn cắp… Bảy người, ai cũng được bản toà tạo dựng, thêu dệt cho một lí lịch đen như mõm chó.
Cuối cùng bản toà tuyên án, người cao nhất là 15 năm tù giam + 5 năm mất quyền công dân, tổng 20 năm; người 17 năm; người 11 năm; người 8 năm; người 9 năm; người 4 năm và cuối cùng, người có giọng ca vàng làm tan chảy trái tim khán thính giả là Lộc Vàng – 14 năm. Anh bị xử là tù chính trị, với 3 tội danh: Tuyên truyền văn hoá của chủ nghĩa đế quốc, phá hoại nền văn hoá XHCN, tuyên truyền phản cách mạng.
Suốt ba ngày xử án, không một ai bào chữa, kể cả những người am hiểu về âm nhạc và hiểu chuyện, chỉ có một câu thét ra lửa của Chánh toà: ”Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố” được lặp đi lặp lại giữa nghị toà. Vậy thôi.
Để lời tuyên án của bản toà có hiệu lực và thêm phần nổi tiếng, bay bổng, li kì, hấp dẫn, đám báo chí của Ban tuyên láo thi nhau “giật tít”, “hoà âm, phối khí”, thêu dệt, bơm thổi, bịa tạc… làm sao để biến “vụ án hát nhạc vàng” phải là vụ án kinh thiên động địa, vang khắp hai miền Nam Bắc, để bên kia chiến tuyến biết thế nào là uy lực Bắc cộng, để xem từ nay có đứa lưu manh, đĩ điếm nào còn dám hát thứ nhạc trụy lạc của xứ phương Tây, châu Âu chó chết… mà chà đạp lên nền văn hoá bao đời của dân tộc nữa hay không?
Nổi bật nhất là “Báo Hà Nội mới” đưa tin vào ngày 12/1/1971, nói Lộc Vàng và nhóm hát “can tội truyền bá văn hoá đồi truỵ của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng, chống lại các chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng quan điểm phản động với bọn “Nhân văn giai phẩm”, luôn mơ ước có cuộc sống tự do như ở Mỹ và Sài gòn.” Xưng xưng dựng lên chuyện các anh còn đi hát cho các đám cưới kiếm tiền, nhân đó mà tuyên truyền chống phá, thu băng, tàng trữ, phát tán đĩa hát… Rồi tờ báo còn đẩy vụ án bay xa hơn rằng các anh “đã lôi kéo bao nhiêu học sinh bỏ học, bao nhiêu thanh niên bỏ việc, lười biếng… sa vào ăn chơi, trụy lạc, dâm ô, thác loạn, du đãng, hiếp dâm, trộm cắp, cờ bạc… Gợi ra cho thanh niên những ước mơ tự do kiểu Mỹ, Sài Gòn kì quặc, hoang đường, xa xăm, trừu tượng, trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động…“ Chính vì thế, nhạc vàng là thứ mầm độc vô cùng nguy hiểm, bỏ tù, giết chết các anh là nhằm triệt trừ tận gốc cái thứ nhạc ngoại lai bệnh hoạn ấy để nó không còn gây hại cho thanh thiếu niên Việt Nam nữa… Khiếp thật!
Trớ trêu thay! Các anh thì thân tàn ma dại trong tù còn nhạc vàng ngoài đời thì vẫn bay bổng, lan toả, sức sống mãnh liệt như cỏ dại. Cuộc đời người nghệ sĩ thì bãi biển nương dâu và thời thế cũng vật đổi sao dời, bảy người đi tù nay chỉ còn sót lại một Lộc Vàng được xưng tụng là “giọng ca vàng ngày ấy”. Nhạc vàng, nhạc tiền chiến, tình khúc và Bolero… quá khứ là thứ độc hại, nguy hiểm, bị hắt hủi, vùi dập; hiện tại thì ngợi ca là di sản văn hoá cao quý của dân tộc cần phải được bảo tồn, gìn giữ. Chờ được vạ má đã xưng, hành trình nhận thức quả là con đường gian nan, cay đắng. Nhưng gần đây lại có cái Cục… gì đó bỗng dưng lại động cỡn ra công lệnh cấm “Con đường xưa em đi” và mấy bài hát nữa… Hỏi có buồn không?
III. SUY NGẪM
Đác-uyn khẳng định con người được tiến hoá từ giống khỉ, đười ươi… nhưng thực tiễn đã chứng minh sai bét. Khỉ và đười ươi vẫn chỉ mãi là chính nó, chưa bao giờ tiến hoá thành người. Giống ấy chỉ sống và làm theo những thói quen mang tính truyền thống hay bắt chước kẻ khác còn lịch sử loài người tiến bộ thì làm theo lẽ phải…
(Ảnh dưới: ML chụp ảnh cùng anh Lộc Vàng tại quán Cafe – 46 An Dương của anh và được nghe anh hát trong một đêm lạnh giá. Quả là danh bất hư truyền, nhất định ML sẽ còn nhiều lần trở lại, bởi tiếng hát của anh đã làm tan chảy trái tim người. Cuốn Hồi kí CUNG ĐÀN SỐ PHẬN của anh ML mới đọc hết chương III, ngày mai, ML sẽ kể tiếp cho các bạn nghe: MỘT NGÀY TÙ NGÀN THU Ở NGOÀI của người tù khốn khổ này…)