Khoảng 12 tuổi tôi đã nấu cơm thành thạo, mặc dù hồi ấy nấu bằng bếp củi. Sau đó nấu bằng bếp trấu, loại bếp như cái bếp than tổ ong, nhét vỏ chai rượu Lúa Mới vào giữa nhồi trấu vào khoảng trống giữa chai và thành bếp thật chặt, rút chai ra và nhóm bằng chút củi. Loại bếp này không tốn vật liệu.
Sau thì nấu bằng than tổ ong, bếp dầu thỉnh thoảng mới dùng vào dịp giỗ, Tết.
Tôi ước mơ lớn lên tôi sẽ làm đầu bếp, tôi sẽ làm đầu bếp ở quán cơm Tám Giò Chả.
Sở dĩ có cái tên đó, là vì hồi ấy quán cơm ngon ở Hà Nội thường có tên là Cơm Tám Giò Chả. Chữ Tám ở đây là chỉ loại gạo Tám Xoan, một loại gạo đặc sản thơm ngon hồi ấy, mà hồi đó giò chả cũng đã được tính vào loại món ăn cao cấp.
Ở phố Trần Nhật Duật có vài quán cơm, đường quốc lộ 1a ngày trước đi qua phố đó để lên cầu Thăng Long. Cánh lái xe tải thường dừng lại ăn cơm, nghề lái xe tải là một trong những nghề có tiền, nên chủ yếu khách của nhà hàng toàn là cánh lái xe. Nhưng cũng có nhiều đoàn cán bộ đi xe U Oát hoặc Von Ga đến ăn. Những quán Cơm Tám Giò Chả chỉ xếp sau những nhà hàng có chim quay, phở xào, ba ba chuối đậu ở phố Tạ Hiện.
Nấu ăn bằng bếp củi, hay trấu thường phải ngồi trực không bỏ đi được nhất là nấu bằng nồi gang nữa, sơ sểnh chút là cơm sẽ bị cháy, gọi là cơm khê. Giờ chắc nhiều người không biết mùi của nồi cơm bị khê thế nào nữa, nhưng với những người cũ mùi vị đó thực sự là nỗi sợ hãi. Bởi bữa ăn thời khốn khó đấy nồi cơm là quan trọng nhất, vì thức ăn kèm đâu có gì. Đôi khi chỉ là mớ rau muống luộc qua, có chút sấu xanh bỏ vào nước luộc, còn rau xào với tỏi và chút mắm tôm cho có vị đạm. Lúc không có gì ăn như thế, miếng cơm cháy nồi gang ròn tan cũng là một miếng ngon.
Thời khó khăn, nên mỗi chút thực phẩm đều phải chế biến tinh tế, cầu kỳ. Mớ rau muống nhặt kỹ từng cái lá uá, cấu đứt tí phần già dưới gốc, loại rau muống ao thân to màu hơi nâu, lá dày luộc phải làm sao lá xanh, thân chín ròn không nát. Rau chín vớt ra thả vài quả sấu đun sôi một lúc thì dầm sấu bắc ra. Lạc rang nhặt những hạt xấu, nếu không sẽ rất hôi. Rang lạc chín, pha bát nước muối hơi đặc đổ ào vào đảo nhanh. Lạc bên ngoài phủ lớp muối, bên trong chín giòn. Một bát tương Bần, một bát cà pháo muối xổi là bữa cơm mùa hè oi ả.
Mùa đông canh dưa nấu lạc, dưa muối rửa sạch, vắt nước rồi cho tí mỡ vào xào săn lại, cho mắm muối xào thêm chút nữa thì đổ nước đun sôi, lạc rã dập làm đôi làm ba xóc thổi cái vỏ tím mỏng cho bay hết cho vào nồi dưa, cho thêm quả cà chua đun lúc là đươc. Làm thêm món củ cải trắng phơi khô, ngâm nước sôi cũng vắt kiệt, thả vào bát nước có tí ớt, xì dầu, đường. Thế là xong được bữa của mùa đông giá lạnh.
Nhiều khi nấu ăn xong, ngẩn người nghĩ về người đầu bếp tài giỏi, không hẳn chỉ là những người đầu bếp làm món baba, cá hấp, gà quay hay gì đó phức tạp. Những người hoàn cảnh vật liệu thực phẩm ít ỏi, đơn giản mà chế biến được thành món ăn được cũng là người giỏi.
Sau rất nhiều năm, dễ đến 40 năm, giờ mới thực hiện ước mơ ban đầu. Sau khi cuốn theo nhiều đam mê, nhiều trải nghiệm đủ đắng cay, tù tội, nợ nần, ân oán, đâm chém.
Sáng nay ăn bát phở mình nấu ở quán của mình, thơm và ngon, đạt chuẩn từng chi tiết. Ăn xong làm ấm trà Thái Nguyên, nhìn qua khung kính thấy cuộc đời đang yên bình trôi qua trước mặt. Nhớ lúc oằn lưng vác đất làm gạch dưới cái nắng chang chang tháng 6 trên bãi sông Ngọc Vân, Thường Tín, nơi đội tù 16 cải tạo, nhớ cái lúc rét 5 độ của mùa đông, mưa lất phất trên cánh đồng rau của đội 19, hay những ngày tháng tha hương tuyết trắng lạnh buốt quê người đi trong nỗi nhớ nhà tê tái. Nhớ cái cùm trong xà lim chật chội nóng như rang người và người buồng bên cạnh đập đầu tự vẫn, tiếng đập đầu thịch thịch và ngừng bặt để lại không giam im lặng đầy bi thương.
Làm điếu Camel nhả khói và tự thốt câu thơ của Hoàng Nhuận Cầm.
Em thấy không tất cả đã qua rồi
Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ.
Giờ chỉ là một người đàn ông trung niên, cặm cụi trong bếp, phục vụ thực khách đến quán của mình.