Sunday, December 22, 2024
HomeBình Luận-Quan ĐiểmSố phận Ukraine sẽ quyết định uy quyền của phương Tây trên...

Số phận Ukraine sẽ quyết định uy quyền của phương Tây trên thế giới

Cù Tuấn

– Cù Tuấn dịch từ The Economist.

Tóm tắt: Một cuộc xâm lược nhằm phục thù giờ đã trở thành một cuộc chiến ý thức hệ

Văn phòng của Trụ sở tối cao Lực lượng Đồng minh Châu Âu (SHAPE), trung tâm chỉ huy của NATO gần Mons ở Bỉ, hoàn toàn đối lập với sự hùng vĩ. Thay vì đá granit và đá cẩm thạch, các hành lang có trần thấp được lát bằng tấm thạch cao và trải thảm lát gạch. Tất nhiên, các tướng bốn sao thích các văn phòng ở trên cao, nhưng SHAPE chỉ có ba tầng. Tòa nhà được xây dựng vào cuối những năm 1960 này, được cho là chỉ tồn tại tạm thời.

Chưa bao giờ sự tồn tại mỏng manh của SHAPE lại đi ngược lại ý thức sứ mệnh to lớn của NATO. Cuộc xâm lược Ukraine của Vladimir Putin, vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, đã hồi sinh lại liên minh này. NATO đã có mục tiêu mới đầu tiên kể từ năm 1967, năm mà các văn phòng của nó mở cửa. Trong khi NATO ngày trước chỉ tập trung vào các phản ứng, NATO hiện nay đang được xây dựng lại để có thể ngăn chặn Nga trong thời bình và đáp trả ngay lập tức bằng vũ lực ngay khi nước này đe dọa xâm phạm lãnh thổ của các thành viên. Tướng Sir Tim Radford, chỉ huy thứ hai của SHAPE cho biết: “Chúng tôi đang nhanh chóng nâng cao khả năng sẵn sàng của quân đội, và khả năng đáp ứng tổng thể của quân đội chúng tôi đang tăng theo cấp số nhân.”

Cuộc chiến đã làm thay đổi Ukraine nhiều hơn. Ông Putin đã lên kế hoạch cho một cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm lật đổ chính phủ Ukraine, đỉnh điểm của chiến dịch xâm lược và gây bất ổn bắt đầu ở Crimea và vùng Donbas vào năm 2014. Thay vào đó, trong đống đổ nát tan hoang của Donbas và trong các hầm tránh bom trên khắp đất nước, chiến tranh đã rèn giũa Ukraine trở thành một nền dân chủ thống nhất hơn, nghiêng về phương Tây hơn, và kiên cường hơn. Trong khi đó, Nga đã được tổ chức lại xung quanh cuộc chiến và sự thù địch ngày càng lớn của ông Putin đối với NATO, ngay cả khi các biện pháp trừng phạt và cuộc di cư của những công dân Nga có trình độ học vấn cao nhất đã hủy hoại triển vọng kinh tế dài hạn của nước này. Việc Nga rơi vào chủ nghĩa quân phiệt chuyên quyền, cùng với sự mạnh lên của NATO và sự chuyển đổi của Ukraine, đã biến cuộc chiến thành một cuộc thử nghiệm các hệ thống ý thức hệ đối địch.

Tương lai của Ukraine vẫn còn như chỉ mành treo chuông—và có khả năng vẫn không chắc chắn trong nhiều năm tới. Ông Putin có thể chấp nhận ngừng bắn vào một thời điểm nào đó vì lý do cần thiết, nhưng cuộc cải tổ xã hội Nga của ông hoàn toàn hướng tới việc gây chiến ở nước ngoài và đàn áp ở trong nước. Do đó, bất kỳ kết thúc có thể tưởng tượng nào đối với cuộc chiến sẽ đòi hỏi sự đảm bảo an ninh mạnh mẽ và chuyển giao vũ khí và viện trợ tài chính lớn và lâu dài của phương Tây cho Ukraine. Điều này khiến Ukraine gần như trở thành một Israel thứ hai, tuy vậy Ukraine lớn hơn Israel nhiều, và một Israel nay đã xuất hiện ở biên giới phía đông của châu Âu. Một số nhà lãnh đạo châu Âu cho rằng Ukraine cần có tư cách thành viên đầy đủ của NATO để được hỗ trợ như vậy. Nếu việc tái thiết Ukraine thất bại, và nền kinh tế của nước này sa sút, thì nền dân chủ Ukraine cũng sẽ thất bại. Các tướng lĩnh của NATO cho rằng Nga có thể xây dựng lại bộ binh trong vòng 3 đến 5 năm. Đến khi đó, các điều kiện đã đủ chín muồi để ông Putin hoặc người kế nhiệm ông có một bước đi khác.

Do đó, trong cả thời chiến và thời bình, Ukraine sẽ thử thách quyết tâm, sự đoàn kết của phương Tây và thậm chí cả năng lực công nghiệp của họ. Đặc biệt, cuộc xung đột này đặt ra ba câu hỏi cơ bản về địa chính trị: Mỹ sẽ đóng vai trò gì đối với an ninh châu Âu, liệu các thành viên châu Âu của NATO có thể đảm nhận trách nhiệm nhiều hơn về phòng thủ trong khu vực hay không, và lòng trung thành của phần còn lại của thế giới sẽ như thế nào trong bối cảnh cuộc chiến lớn nhất ở châu Âu kể từ năm 1945. Các câu trả lời không chỉ quan trọng đối với số phận của Ukraine mà còn là thước đo lòng tự tin và tầm vóc của phương Tây.

Phần lớn thế giới đã kết luận rằng sức mạnh của Mỹ và các đồng minh đang suy yếu, vì họ đã thất bại ở Afghanistan và Iraq, do họ phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự kế thừa của các chính phủ bị cản trở bởi xung đột và chủ nghĩa dân túy. Nếu Ukraine chịu khuất phục trước Nga, nhận thức về sự suy tàn của phương Tây sẽ ngày càng sâu sắc. Nhưng nếu Ukraine phát triển mạnh mẽ, thành công này sẽ vang dội khắp thế giới. Vùng ảnh hưởng này sẽ bao gồm cả Thái Bình Dương, nơi cuộc đấu tranh giữa Nga độc tài và Ukraine do phương Tây hậu thuẫn nên được coi là phần mở đầu cho cuộc cạnh tranh định đoạt thế kỷ giữa Trung Quốc và Mỹ.

1. Đại Tây Dương thu nhỏ lại

Trong ba câu hỏi địa chính trị, cấp bách nhất là vai trò của Mỹ ở châu Âu. Michael Clarke, cựu giám đốc Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia (RUSI), một think-tank, cho biết: “An ninh châu Âu không chỉ thay đổi một chút mà nó đã thay đổi về cơ bản. Năm 2019, tổng thống Pháp, Emmanuel Macron, nói rằng NATO đang bị “chết não”, vì dưới thời Tổng thống Donald Trump và Barack Obama, nước Mỹ đã bắt đầu quay lưng lại với châu Âu. Ukraine đã chứng minh nhận định đó là sai.

Fabrice Pothier, cựu nhà hoạch định chính sách của NATO và là giám đốc của Rasmussen Global, một công ty tư vấn, cho biết: “Chiến tranh đã đưa Mỹ trở lại với tư cách là một cường quốc hàng đầu của châu Âu.” Dưới thời Tổng thống Joe Biden, Mỹ đã gửi vũ khí và viện trợ trị giá 48 tỷ đô la cho Ukraine. Kori Schake, một cựu quan chức hiện đang làm việc tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, một tổ chức tư vấn, nói rằng rõ ràng là nếu không có Mỹ, Châu Âu sẽ không hợp tác cùng nhau cung cấp cho Ukraine các hỗ trợ cần thiết.

Viện trợ không chỉ là một dấu hiệu cho thấy sự hào phóng của Mỹ, mà còn là sức mạnh của nó. Với chi phí khoảng 5% ngân sách quốc phòng hàng năm của Mỹ, quân Ukraine đã phá vỡ huyền thoại về sức mạnh quân sự của Nga, phá hủy hơn 1.000 xe tăng Nga trong vòng chưa đầy một năm. Bà Schake nói: “Chúng tôi từng nghĩ Nga là nước có quân đội tốt thứ hai trên thế giới. “Và bây giờ nó thậm chí không phải là quân đội tốt nhất trong các nước Liên Xô cũ.”

Câu hỏi đặt ra là Mỹ sẽ chọn gì khi chiến tranh nóng đã kết thúc và Ukraine cần tái thiết trong giai đoạn hòa bình đầy thuốc súng. Bà Schake hy vọng các quan chức Mỹ sẽ lập luận rằng, vì họ đã cung cấp hầu hết sự hỗ trợ trong cuộc chiến, người châu Âu nên trả tiền cho việc tái thiết và tái vũ trang Ukraine. Đồng thời, bà nói, Lầu Năm Góc có thể kết luận rằng tình trạng suy giảm về bộ binh của Nga có nghĩa là Mỹ không còn cần một đội quân thường trực lớn trên đất châu Âu.

Ẩn sau tính toán này là việc Mỹ cần phải tập trung vào Trung Quốc. Một sự rút lui đột ngột sẽ không có lợi cho Mỹ: nếu những đảm bảo an ninh của Mỹ không được coi là đáng tin cậy ở châu Âu, thì chúng sẽ không được coi là đáng tin cậy ở châu Á. “Tập Cận Bình đang theo dõi chúng ta rất chặt chẽ,” Thượng nghị sĩ Roger Wicker, thành viên cấp cao nhất của Đảng Cộng hòa trong Ủy ban Quân vụ, cho biết vào tháng trước. “Ông ấy muốn xem liệu chúng ta có tuân thủ cam kết của mình hay không khi ông ấy cân nhắc các cơ hội xâm lược Đài Loan, nước láng giềng của Trung Quốc và cũng là người bạn của chúng ta. Các đồng minh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi cũng đang theo dõi sát sao—và thậm chí còn giúp đỡ Ukraine.”

Vì lý do đó, Andrew Michta thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Âu George C. Marshall ở Đức cho biết, Mỹ có khả năng nhấn mạnh rằng “chia sẻ gánh nặng” sẽ trở thành “chuyển giao gánh nặng”. Điều đó có nghĩa là Mỹ vẫn giúp bảo vệ châu Âu thông qua khả năng răn đe hạt nhân và các khả năng công nghệ cao khác, nhưng để quân đội châu Âu cung cấp hầu hết các lực lượng binh chủng thông thường. Điều này nâng cao yêu cầu đã lâu đời rằng các thành viên châu Âu của NATO phải có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ lục địa của chính họ, vốn đã bị cả ông Obama và ông Trump thúc ép theo những cách khác nhau.

Trước chiến tranh, Mỹ coi chia sẻ gánh nặng chủ yếu là một cách để cắt giảm chi phí. Fiona Hill, một chuyên gia về Nga từng phục vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia, cho biết ngày nay nó còn có logic chiến lược rộng lớn hơn: “Những gì Nga đang nói là, OK, Mỹ vẫn là một lực lượng chiếm đóng ở Châu Âu; Châu Âu không có an ninh; chúng tôi muốn trở thành lực lượng thống trị giống như Đức trong Thế chiến thứ nhất hoặc Thế chiến thứ hai.” Bà Hill thấy trước những suy nghĩ nghiêm túc về cách “trang bị thêm” cho an ninh châu Âu xung quanh Ukraine mà không để Mỹ chi phối mọi thứ, bởi vì trách nhiệm nâng cao của châu Âu chống lại quan điểm của Nga rằng NATO chỉ là một công cụ của Mỹ.

Điều đó đặt ra câu hỏi thứ hai: liệu châu Âu có thể đương đầu với thách thức? Ông Pothier tin rằng chiến tranh đã buộc họ phải suy nghĩ một cách chiến lược hơn. Chỉ trong một năm, một số hạn chế đã làm giảm khả năng vận động ngoại giao của nước này, chẳng hạn như sự phụ thuộc của Đức vào khí đốt của Nga, đến giờ phần lớn đã được dỡ bỏ. Ba ngày sau cuộc chiến, thủ tướng, Olaf Scholz, đã tuyên bố một bước ngoặt trong triển vọng toàn cầu của Đức, với việc cam kết chi 100 tỷ euro (107 tỷ USD) để chuẩn bị cho Bundeswehr trở nên quyết đoán hơn—mặc dù vẫn chưa biết khoản chi đó sẽ hiệu quả đến mức nào.

Hậu quả của việc Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO sẽ mang tính tức thời hơn và có lẽ còn quan trọng hơn. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ đồng ý việc trở thành thành viên của họ – và điều đó nên xảy ra – thì hai quốc gia này sẽ mang đến rất nhiều nhân sự, thiết bị và chuyên môn chiến đấu mới. Ví dụ, Phần Lan có thể tập hợp 280.000 quân trong vòng vài tuần, lớn hơn gấp đôi quy mô của quân thường trực và quân dự bị của Anh.

Về mặt địa lý, Phần Lan và Thụy Điển cũng sẽ giúp đảm bảo an toàn cho các quốc gia vùng Baltic, vốn khó tiếp tế qua dải lãnh thổ hẹp của Ba Lan nằm giữa Belarus và vùng đất Kaliningrad của Nga. Mặc dù họ mở rộng đáng kể biên giới của NATO với Nga, nhưng “quân đội Bắc Âu và Scandinavia có thể tập hợp các nguồn lực,” bà Hill nói, “trở thành một tuyến phòng thủ khá đáng gờm.” Ngoài ra, nếu ông Putin hoặc người kế nhiệm tấn công một thành viên của NATO, ông ấy sẽ phải lo bảo vệ một đường biên giới dài hơn.

Tom Keatinge, một nhà phân tích của RUSI cho biết, các thành viên châu Âu lục địa của NATO cũng đã thể hiện sự nghiêm túc mới trong việc áp dụng các biện pháp trừng phạt. Trong quá khứ, các biện pháp trừng phạt của họ thường mang tính tượng trưng. Mặc dù các nhà lãnh đạo phương Tây đã khoa trương khi giả vờ rằng các biện pháp trừng phạt sẽ nhanh chóng khiến Nga phải quỳ gối, nhưng các quốc gia EU đã coi chúng đủ nghiêm túc để cập nhật luật pháp của họ nhiều lần nhằm thực thi chúng. Điều đó quan trọng bởi vì theo dõi các biện pháp trừng phạt là một việc vất vả. Ông Keatinge nói: “Chúng là một dạng dịch cúm gà mà bạn hy vọng cuối cùng nó sẽ giết chết cả đàn gà. Giờ hình dạng mục tiêu đã thay đổi và do đó bạn cần phải ngắm lại cho đúng.”

Xem xét vị trí của châu Âu trước cuộc xâm lược của Nga, tất cả những điều này đánh dấu sự tiến bộ. Một quan điểm đang nổi lên rằng trọng tâm của NATO đang chuyển từ Pháp và Đức sang phía đông và phía bắc. Quốc phòng châu Âu đang ngày càng được xác định lại ở Ba Lan và các nước Bắc Âu, cũng như ở Ukraine. Nước Anh thời hậu Brexit cũng đã cho thấy rằng trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, nước này vẫn có thể đi tiên phong ở châu Âu. Nhờ sức mạnh mới này, ông Pothier nói, châu Âu, vốn luôn là một gã khổng lồ về kinh tế, đang chuyển từ một chú lùn chính trị thành một sự hiện diện rõ rệt hơn trong các vấn đề thế giới.

Tuy nhiên, bất chấp sự tiến bộ đó, các thành viên châu Âu của NATO vẫn không thể đảm đương vai trò của Mỹ. Sir Lawrence Freedman, giáo sư nghiên cứu chiến tranh tại Đại học King’s College London, cho biết: “Bất cứ điều gì châu Âu làm, nó đều làm theo từng phần nhỏ. Tầm nhìn vĩ đại về an ninh châu Âu mới không thuyết phục được nó. Bởi vì có quá nhiều quan điểm khác nhau.” Không chỉ quyền lực đang dịch chuyển về phía đông, mà giấc mơ về “quyền độc lập chiến lược của châu Âu” tách khỏi Mỹ của ông Macron dường như vẫn còn xa vời hơn bao giờ hết.

Một điều đáng lo ngại là châu Âu sẽ không đủ đoàn kết để tái thiết Ukraine. Số tiền phải chi sẽ lên tới hàng trăm tỷ đô la vào thời điểm ngân sách chính phủ trên khắp châu Âu đang bị siết chặt. Tiền không phải là yếu tố duy nhất. EU cũng có vai trò thúc đẩy văn hóa thể chế phương Tây ở Ukraine, bao gồm một môi trường pháp lý tốt và ngăn chặn tham nhũng. Viễn cảnh Ukraine gia nhập EU có thể là một động lực mạnh mẽ để cải cách, nhưng chỉ khi tư cách thành viên dường như thực sự có thể đạt được, chứ không phải là một giấc mơ tan dần, như thường thấy ở các nước khác.

Một nỗi lo khác là các nhà sản xuất vũ khí phương Tây không có khả năng trang bị vũ khí cho Ukraine để giành chiến thắng, chứ đừng nói đến việc xây dựng kho vũ khí của mình trong thời kỳ hòa bình và bổ sung kho vũ khí của chính NATO. Ukraine đang bắn đi 5.000-6.000 quả đạn mỗi ngày, gần bằng lượng mua hàng năm của một quốc gia NATO nhỏ trước khi Nga xâm lược. Các ngành công nghiệp quốc phòng của phương Tây đã lụi tàn kể từ khi Liên Xô sụp đổ.

Nếu châu Âu tỏ ra thiếu sót như trên – và, ngay bây giờ, điều đó dường như có thể xảy ra một cách đáng buồn – thì Ukraine có thể sẽ phải trả giá. Công việc lấp đầy các khoảng trống cũng như việc hô hào châu Âu giúp đỡ một lần nữa sẽ do Mỹ dẫn đầu. Việc này có thể do một tổng thống Mỹ khác thực hiện. Ông Clarke nói: “Khi mọi thứ ổn định, chúng ta có một điểm thất bại duy nhất trong liên minh phương Tây rất ấn tượng này. Và điểm thất bại duy nhất này là khả năng sẵn sàng tiếp tục của Mỹ.”

Câu hỏi địa chính trị lớn cuối cùng do cuộc chiến đặt ra là: liệu phương Tây có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến dư luận quốc tế hay không. Chỉ một phần ba dân số thế giới sống ở các quốc gia vừa lên án Nga xâm lược vừa áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với nước này, theo Economist Intelligence Unit, tổ chức chị em của tờ báo Economist. Hầu hết họ đều là đồng minh thân cận của Mỹ. Phần còn lại có xu hướng coi cuộc chiến là cuộc cạnh tranh giữa những kẻ chuyên quyền và những kẻ đạo đức giả.

Shivshankar Menon, trước đây là nhà ngoại giao hàng đầu của Ấn Độ, đã nói thay cho nhiều người. Ông thừa nhận rằng cuộc chiến đã gây ra những tổn thất kinh tế toàn cầu và khiến hệ thống quốc tế gặp khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề như phát triển và biến đổi khí hậu. Nhưng ông bác bỏ ý kiến cho rằng các nước đang phát triển nên đứng về phía Ukraine.

Ông Menon nói: “Đó không phải là một bước ngoặt địa chính trị đối với phần còn lại của thế giới. “Chúng ta đang ở tại một thời điểm mà ranh giới địa chính trị chính vẫn là giữa Trung Quốc và Mỹ và cuộc chiến này sẽ không thay đổi được điều đó.” Ông coi cuộc chiến là một cuộc đấu tranh vì an ninh châu Âu. Bất cứ bên nào thắng, hoặc nếu không bên nào thắng, châu Âu sẽ bất ổn và trở nên phải bận tâm nhiều hơn. Ông Menon nhận thấy châu Âu vẫn là một thế lực trong nền kinh tế toàn cầu, nhưng không trở thành một thế lực về địa chính trị.

Tuy nhiên, theo ít nhất ba cách, cuộc chiến đã làm xáo trộn trật tự quốc tế. Đầu tiên là ở Châu Phi, Kavkaz và Trung Á, nơi các nhà ngoại giao của Nga đang nỗ lực hết sức để củng cố ảnh hưởng của mình. Mặc dù Nga đang giữ được vị thế của mình ở châu Phi, nhưng họ đang mất dần vị thế ở những nơi khác.

Khi Azerbaijan, được Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn, phát động một cuộc chiến hạn chế chống lại Armenia vào tháng 9, Nga đã không thể ngăn chặn thất bại của quốc gia đồng minh. Tổng thống Kazakhstan, Kassym-Jomart Tokayev, đã mang ơn những người lính dù Nga đã giúp trấn áp một cuộc nổi dậy ngay trước cuộc chiến ở Ukraine. Tuy nhiên, ông Tokayev không hề cảm thấy hối tiếc khi được ông Tập ve vãn, khi ông Tập đã đến gặp ông ngay trước một hội nghị thượng đỉnh khu vực, nơi ông Putin bị cả Trung Quốc và Ấn Độ chỉ trích.

Điều khó chịu thứ hai đối với chính trị toàn cầu là lời đe dọa sử dụng bom hạt nhân của ông Putin. Mặc dù ông đã thất bại trong việc ngăn chặn phương Tây cung cấp vũ khí tiên tiến cho Ukraine, nhưng ông đã làm chậm quá trình vận chuyển vũ khí này. Ông Putin đã thành công một nửa, ông Pothier nói. “Ông ấy thực sự đã gieo rắc nỗi sợ hãi trong dân chúng và thậm chí cho cả các nhà lãnh đạo của chúng tôi.”

Ngay cả sự xói mòn có giới hạn của điều cấm kỵ đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân cũng là một vấn đề đối với tất cả các quốc gia. Nếu ông Putin được coi là đã giành được lợi thế từ những lời đe dọa hạt nhân, thì đó sẽ là động cơ khuyến khích những quốc gia xâm lược khác sở hữu bom hạt nhân và đe dọa sử dụng nó. Trong bối cảnh Nga và Mỹ đang gặp khó khăn trong việc thống nhất về kiểm soát vũ khí hạt nhân, nguy cơ phổ biến vũ khí này trở nên ngày càng lớn. Tống tiền hạt nhân là một mối lo ngại đặc biệt đối với Ấn Độ. Nước này có ưu thế về vũ khí thông thường so với đối thủ Pakistan, và Pakistan đã đầu tư rất nhiều vào vũ khí hạt nhân tầm ngắn để bù đắp lại chênh lệch.

Cuối cùng, cuộc chiến đang đẩy Nga vào vòng tay của Trung Quốc. Trong thời kỳ Liên Xô, Trung Quốc coi Nga là một mối đe dọa. Giờ đây, khi biên giới phía bắc rộng lớn đã yên bình, ông Tập có thể chuyển các nguồn lực quân sự sang nơi khác. Trung Quốc cũng được hưởng lợi từ đồng minh Nga có cùng chí hướng tại Liên Hợp Quốc, nơi Trung Quốc có thể tọa sơn quan hổ đấu trong khi Nga hành động như một kẻ bắt nạt hung hãn. Và cuối cùng, Alexander Gabuev của Tổ chức Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, một tổ chức tư vấn, lưu ý rằng Nga có nguồn hàng hóa có giá trị, và chúng đang ngày càng được cung cấp theo các điều kiện của Trung Quốc.

Ông Gabuev nói: “Tôi có thể đoán rằng vũ khí hiện đại của Nga cũng được cung cấp cho Trung Quốc theo cách đó.” Ông lưu ý, Trung Quốc vẫn dựa vào Nga để có một số thành phần quân sự quan trọng, điều này làm cho tình hữu nghị trở thành trung tâm trong bất kỳ kế hoạch nào mà Trung Quốc có thể có để xâm chiếm Đài Loan.

2. Biểu dương lực lượng

Trong SHAPE tháng này, họ đang lên kế hoạch cho cuộc tập trận lớn nhất từ ​​trước đến nay của NATO, được gọi là Người bảo vệ ổn định. Được lên kế hoạch vào đầu năm 2024, nó sẽ có sự tham gia của hàng chục nghìn quân dưới sự chỉ huy của liên minh. Trong quá khứ, NATO thường ít hơn tổng số các bộ phận của nó. Bài tập sẽ là một bài kiểm tra học thuyết mới, được gọi là Ngăn chặn và Phòng thủ, và là kết quả của bốn năm làm việc. Ý tưởng của nó là thâm nhập sâu vào các quân đội quốc gia để thể hiện sức mạnh trong tất cả các lĩnh vực, từ các trận chiến trên bộ đến chiến tranh mạng.

Cuộc tập trận cũng nhằm chứng minh cho ông Putin thấy rằng một cuộc tấn công vào một thành viên của liên minh sẽ là một thảm họa. Các tướng lĩnh của NATO muốn ngăn chặn một tính toán sai lầm mà họ tin rằng ông ấy đã thực hiện khi xâm lược Ukraine.

Chưa hết, quy mô của tính toán sai lầm đó vẫn chưa được xác định. Thành công của Nga trên chiến trường vào mùa xuân, hoặc thậm chí là đóng băng cuộc xung đột ở dạng hiện tại, kết hợp với chương trình hỗ trợ và tái vũ trang Ukraine nửa vời hoặc thiếu hiệu quả, sẽ khẳng định quan điểm của ông rằng phương Tây đang suy tàn.

Ngay cả những quốc gia cho rằng cuộc xâm lược của ông Putin là đáng trách vẫn có thể kết luận rằng sức mạnh của phương Tây đang suy yếu nếu họ không cứu được Ukraine. Nhưng nếu được cung cấp vũ khí, tiền bạc và hỗ trợ chính trị, Ukraine vẫn có thể chiếm ưu thế. Nhờ lòng dũng cảm và sức mạnh của việc đi trước làm gương, người dân Ukraine đã giành được cơ hội đó. Không thể có khoản đầu tư nào tốt hơn cho việc đầu tư vào an ninh phương Tây.

Nguồn : https://www.facebook.com/tuan.cu.5/posts/pfbid0Ms3RWDt6kTGepJKoQNKfoihghNBkj5cchownLHrRjAZmiG6H348oBQTmKQ4iEqPRl

https://www.economist.com/briefing/2023/02/18/what-ukraine-means-for-the-world

RELATED ARTICLES

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular