Thứ Năm, Tháng 9 25, 2025
HomeBình Luận-Quan ĐiểmLập luận cho việc hình thành nền tảng công nghệ AI thứ...

Lập luận cho việc hình thành nền tảng công nghệ AI thứ ba

Viện Brookings

Tóm tắt

Cuộc tranh luận về chủ quyền trên toàn bộ mạng lưới, hệ thống và ứng dụng kỹ thuật số không phải là mới. Ngay từ năm 1996, “Tuyên ngôn Độc lập Không gian mạng” của John Perry Barlow đã thách thức quan niệm về sự kiểm soát của chính phủ đối với internet. Trung Quốc đã ủng hộ sự cần thiết phải có sự kiểm soát của nhà nước đối với internet trong hơn một thập kỷ. Gần đây hơn, vào tháng 2, Phó Tổng thống Hoa Kỳ J.D. Vance đã khẳng định rằng Hoa Kỳ “là quốc gia dẫn đầu về AI, và chính quyền [Trump] có kế hoạch duy trì vị thế đó”. Ông nói thêm rằng “Hoa Kỳ sở hữu tất cả các thành phần trong toàn bộ nền tảng AI, bao gồm thiết kế bán dẫn tiên tiến, các thuật toán tiên tiến, và tất nhiên, các ứng dụng mang tính chuyển đổi.”

Tham vọng này đã được chính thức hóa vào tháng 7 thông qua Kế hoạch Hành động AI của Hoa Kỳ, trong đó mạnh mẽ ủng hộ ý tưởng về một hệ thống AI có chủ quyền của Hoa Kỳ, nhấn mạnh “nhu cầu thiết lập AI của Hoa Kỳ – từ chất bán dẫn tiên tiến đến mô hình và ứng dụng của chúng ta – làm tiêu chuẩn vàng cho AI trên toàn thế giới và đảm bảo các đồng minh của chúng ta đang phát triển dựa trên công nghệ của Hoa Kỳ”. Gần đây hơn, chính quyền đã nắm giữ 10% cổ phần của Intel và bày tỏ sự quan tâm đến “nhiều khoản đầu tư khác tương tự”.

Nhưng việc thực thi “chủ quyền” dọc theo hệ thống công nghệ AI (xem Bảng 1) – bao gồm mọi thứ, từ khoáng sản đất hiếm thượng nguồn và vật liệu quan trọng đến sản xuất chip chuyên dụng có độ chính xác cao, cơ sở hạ tầng đám mây, trung tâm dữ liệu và đào tạo mô hình tiên tiến – là một nỗ lực đáng kể. Mỗi giai đoạn của hệ thống này đại diện cho sự khéo léo và chuyên môn của những người lao động lành nghề cũng như các điểm kiểm soát chiến lược với những tác động kinh tế, chính trị và an ninh quan trọng. Ngày nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc thống trị toàn bộ hệ thống AI, khiến phần còn lại của thế giới phải đối mặt với một lựa chọn ngầm khó khăn: đồng hành cùng một phiên bản của hệ thống hoặc đứng giữa ranh giới giữa hai phiên bản. Không hài lòng với lựa chọn này và lo ngại về sự phân chia số do AI gây ra, ngày càng nhiều quốc gia muốn phát triển “AI có chủ quyền” của riêng mình bằng cách giành quyền kiểm soát một số hoặc toàn bộ các thành phần chính của nền tảng công nghệ AI.

Các sáng kiến ​​thúc đẩy AI có chủ quyền đã và đang được triển khai trên toàn thế giới, bao gồm Liên minh Châu Phi, Ấn Độ, Brazil và Liên minh Châu Âu. Gần đây, những nỗ lực này đã trở nên cấp bách hơn, thu hút nhiều người ủng hộ đáng kính hơn, những người đã phác thảo nên một kế hoạch được cân nhắc kỹ lưỡng. Những người ủng hộ lập luận rằng việc kiểm soát ít nhất một phần nền tảng AI là cần thiết không chỉ cho khả năng cạnh tranh kinh tế mà còn cho việc bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ, an ninh quốc gia và khả năng định hình các chuẩn mực toàn cầu.

Một số tiếng nói mạnh mẽ nhất về AI “có chủ quyền” đến từ Châu Âu. Những lo ngại của EU là dễ hiểu do những điểm yếu chiến lược của khối này. Châu Âu chỉ chiếm 10% thị trường vi mạch toàn cầu. 74% các quốc gia thành viên EU ít nhất một phần phụ thuộc vào các nhà cung cấp đám mây của Hoa Kỳ, trong khi chỉ có 14% các quốc gia EU sử dụng các nhà cung cấp Trung Quốc. Chỉ 14% sử dụng các nhà cung cấp dịch vụ EU ngay cả khi châu Âu đã thúc đẩy giải pháp thay thế dịch vụ đám mây nội địa Gaia-X nhưng không mấy hiệu quả. Hơn 80% công nghệ tổng thể của châu Âu được nhập khẩu. EU cũng đang phải đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám dai dẳng khi các công ty khởi nghiệp và nhân tài AI ngày càng di cư sang các hệ sinh thái của Mỹ, Canada và Trung Quốc để tìm kiếm vốn và quy mô.

Những lo ngại của châu Âu về chủ quyền kỹ thuật số tiếp tục là những tranh luận kéo dài về quyền riêng tư và giám sát của chính phủ. Những tiết lộ của Snowden năm 2013 đã khơi lại căng thẳng về luồng dữ liệu xuyên Đại Tây Dương, dẫn đến những thách thức pháp lý cuối cùng đã làm mất hiệu lực của cả thỏa thuận Safe Harbor ban đầu và thỏa thuận kế nhiệm, Privacy Shield. Những lo ngại này càng gia tăng bởi “Đạo luật Làm rõ Việc Sử dụng Dữ liệu Hợp pháp ở Nước ngoài” (Đạo luật CLOUD) của Hoa Kỳ năm 2018, trao cho các cơ quan thực thi pháp luật Hoa Kỳ thẩm quyền pháp lý để buộc các nhà cung cấp Hoa Kỳ cung cấp quyền truy cập vào dữ liệu được lưu trữ trên máy chủ ngay cả khi máy chủ được đặt ở nước ngoài. Mặc dù Ủy ban Châu Âu (EC) phần nào được trấn an bởi các phản ứng của các tổ chức như Hội đồng Giám sát Quyền riêng tư và Tự do Dân sự (PCLOB), nhưng uy tín của EC đã bị suy yếu đáng kể bởi chính quyền Trump. Song song với những lo ngại này, EU đã xây dựng một chương trình nghị sự về việc ban hành quy định kỹ thuật số quyết đoán hơn. EC đã mở rộng năng lực quản lý của mình với các đạo luật bao gồm Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số (DSA), Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA), Đạo luật AI và Bộ Quy tắc Thực hành, cũng như các hành động thực thi nhắm vào các công ty công nghệ thống trị của Hoa Kỳ. Những nỗ lực này phản ánh tham vọng rộng lớn hơn của nhiều nhà hoạch định chính sách EU trong việc định hình bộ quy tắc kỹ thuật số toàn cầu và giảm sự phụ thuộc chiến lược vào các nhà cung cấp nước ngoài.

Tuy nhiên, đối với nhiều người ở Châu Âu, việc thúc đẩy một hệ thống AI có chủ quyền chỉ trở thành ưu tiên hàng đầu vào năm 2025, sau bài phát biểu của Vance và những thay đổi trong chính sách đối ngoại và thương mại của Hoa Kỳ, bao gồm việc chính quyền Trump thắt chặt kiểm soát xuất khẩu chất bán dẫn, các mối đe dọa công khai về việc rút khỏi NATO và lập trường quyết đoán hơn về công nghệ quốc tế.

Các quy định về khoa học. Những thay đổi này đã làm dấy lên lo ngại về sự phụ thuộc quá mức vào nền tảng AI của Hoa Kỳ, vốn có thể bị cắt đứt đột ngột hoặc thay đổi nhanh chóng bởi các động thái chính trị của Hoa Kỳ. Axel Voss, một thành viên người Đức của Nghị viện Châu Âu và là tiếng nói hàng đầu về quản trị dữ liệu và AI, đã tuyên bố: “Chúng ta không còn một đối tác đáng tin cậy nào tại Hoa Kỳ nữa” và Châu Âu nên phát triển “AI có chủ quyền và đám mây an toàn” của riêng mình. Cristine Caffra, một người ủng hộ hàng đầu cho chủ quyền AI của Châu Âu, cho biết: “Nếu đường sá, nước, điện, tàu hỏa và sân bay của chúng ta phần lớn nằm trong tay nước ngoài, chúng ta sẽ thấy điều đó là không thể chấp nhận được.”

Cơ sở lý luận toàn cầu cho nền tảng AI thứ ba

Ngoài chủ quyền, còn có một cơ sở lý luận toàn cầu mạnh mẽ để Châu Âu vạch ra lộ trình cho “nền tảng công nghệ AI thứ ba”. Nền tảng này sẽ đa dạng hóa và thúc đẩy cạnh tranh thị trường vượt ra ngoài các phân khúc địa lý hiện tại của Hoa Kỳ và Trung Quốc, tăng cường đổi mới kỹ thuật và dựa trên giá trị, đồng thời cung cấp cho các quốc gia một giải pháp thay thế phù hợp với các chuẩn mực dân chủ và các tính năng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn, bao gồm tính minh bạch, độ tin cậy và trách nhiệm giải trình. Theo nghĩa này, một AI Stack do châu Âu dẫn đầu có thể tạo sự khác biệt bằng cách nâng cao tiêu chuẩn về chính sách quản trị dữ liệu, tiêu chuẩn giám sát và báo cáo, cũng như tác động môi trường.

Hiện tại, bối cảnh địa chính trị thường được xem là bị chi phối bởi hai thế lực. Hoa Kỳ nắm giữ vị thế thống trị thị trường công nghệ ban đầu và hội nhập sâu rộng vào các hệ thống kinh tế toàn cầu, được củng cố bởi vai trò lãnh đạo trong các tổ chức như G7 và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Trung Quốc thúc đẩy cơ sở hạ tầng của riêng mình thông qua các chương trình như Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số và tạo ảnh hưởng địa chính trị thông qua BRICS và Kế hoạch Hành động Quản trị AI Toàn cầu của riêng mình. Một EU cạnh tranh hơn trong ngành công nghiệp AI toàn cầu có thể thiết lập “con đường thứ ba hướng tới tương lai” dựa trên các giá trị dân chủ và các quyền cơ bản. Mặc dù khát vọng này nghe có vẻ sáo rỗng, nhưng liệu nó có thực tế không?

Thực tế hay sáo rỗng?

Tóm lại, câu trả lời là không: Tầm nhìn tối đa về chủ quyền AI là không thực tế – không phải đối với châu Âu, và không phải đối với bất kỳ quốc gia hay khu vực nào, kể cả Hoa Kỳ. Bất chấp khẳng định của Vance, ngay cả Hoa Kỳ cũng không hoàn toàn kiểm soát toàn bộ hệ thống: Công ty Sản xuất Bán dẫn Đài Loan (TSMC) sản xuất gần như toàn bộ chip của Nvidia. Đổi lại, TSMC phụ thuộc vào công ty ASML của Hà Lan về các máy khắc cực tím (EUV) tiên tiến cần thiết để sản xuất chip xử lý đồ họa (GPU) AI. Tính đến cuối năm 2023, TSMC sở hữu hơn một nửa số máy EUV trên thế giới, và ASML là nhà cung cấp độc quyền. Những máy móc này tích hợp một loạt công nghệ, bao gồm hệ thống quang học của Đức và thiếc có nguồn gốc toàn cầu. Trong toàn bộ hệ thống AI, các công nghệ nền tảng dựa trên kim loại và vật liệu hiếm với nguồn cung hạn chế từ các mỏ trên khắp thế giới.

Sự phụ thuộc lẫn nhau về công nghệ toàn cầu phức tạp này phản ánh hàng thập kỷ tích lũy chuyên môn và chuyên môn hóa, dẫn đến lợi thế so sánh không thể dễ dàng sao chép, ngay cả trong trung hạn, bất chấp những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm “khôi phục ngành sản xuất chất bán dẫn của Hoa Kỳ” thông qua các chính sách như Kế hoạch Hành động AI của Hoa Kỳ và Đạo luật CHIPS và Khoa học, đầu tư vào các nhà máy bán dẫn và hợp lý hóa việc cấp phép. Bên cạnh vị thế suy yếu trong lĩnh vực công nghệ số, châu Âu còn phải đối mặt với cái mà cựu Thủ tướng Ý Mario Draghi gọi là “khoảng cách đổi mới”. Các nước EU phải quản lý các yêu cầu chính trị tốn kém của việc tái vũ trang, cũng như chi phí phúc lợi xã hội và thâm hụt ngân sách ngày càng tăng.

Phát triển nền tảng AI thứ ba do châu Âu dẫn đầu: đối mặt với những sự thật khó chịu

Những áp lực này đã buộc phải có một sự thay đổi thực dụng. Ngay cả những người ủng hộ nhiệt thành nhất cho nền tảng AI do châu Âu dẫn đầu, hay còn gọi là “EuroStack”, cũng đã từ bỏ chủ quyền tuyệt đối, hoàn toàn để “tạo ra một không gian cho công nghệ châu Âu” và làm rõ rằng tầm nhìn này “không phải là đóng cửa EU với thế giới — hoàn toàn ngược lại. Nó là về việc… thúc đẩy các mối quan hệ đối tác quốc tế đáng tin cậy”. Các chính trị gia như Nghị sĩ châu Âu Eva Maydell đã đi xa hơn, kêu gọi người dân châu Âu “tỉnh táo lại”.

Một chiến lược thực tế hơn là EU kiểm soát các tầng của nền tảng AI mà mình có lợi thế so sánh. Điều này sẽ tạo cho EU đủ đòn bẩy để đạt được sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt chiến lược và đảm bảo một vị trí tại bàn đàm phán. Tương tự như một hiệp ước an ninh, sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt chiến lược cho phép đổi mới phát triển mạnh mẽ và cạnh tranh tồn tại, đồng thời có thể đảm bảo an ninh cho tất cả các thành viên. EU có thể dẫn đầu việc phát triển một nền tảng AI thứ ba, được xây dựng thông qua quan hệ đối tác với các quốc gia “cùng chí hướng” hoặc “vị trí thứ ba” như Brazil, Canada, Ấn Độ, Nhật Bản, Kenya, Hàn Quốc và Nigeria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Vương quốc Anh, tất cả đều có lợi ích chiến lược tương tự trong việc tạo ra một nền tảng AI thứ ba độc lập hơn với Trung Quốc và Hoa Kỳ, đồng thời có chuyên môn tiên tiến trong các lĩnh vực của nền tảng AI. Hiện tại, EuroStack đã đề xuất

Các nhà sản xuất công nghệ coi Cơ sở hạ tầng Công cộng Kỹ thuật số của Ấn Độ là một hình mẫu. Samsung của Hàn Quốc có doanh thu toàn cầu cao nhất về chất bán dẫn vào năm 2024 và có thể tạo ra một thị trường ngách đáng kể thông qua chip suy luận Mach-1, dường như tiết kiệm năng lượng hơn so với Bộ nhớ Băng thông Cao truyền thống được sử dụng trong chip Nvidia truyền thống. Canon và Nikon của Nhật Bản đang phát triển công nghệ in nano và quang khắc Argon-Fluoride có thể thay thế EUV. Vương quốc Anh được công nhận rộng rãi là quốc gia dẫn đầu về khoa học AI, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo khởi nghiệp. Thêm những quốc gia này vào năng lực nội địa của Châu Âu và những đường nét của một nền tảng AI thứ ba đáng tin cậy sẽ xuất hiện.

Mặc dù Châu Âu đã có mối quan hệ tốt đẹp với một số đối tác này, nhưng cần phải tăng cường phát triển những kết nối này thành các liên minh thực sự và định vị mình ở trung tâm của liên minh này. Mặc dù những người ủng hộ EuroStack thừa nhận: “…cần tìm kiếm sự hợp tác với các quốc gia bên thứ ba có chung mục tiêu và cũng có thể được tiếp cận đặc quyền với một số nguồn lực đầu vào nhất định…” và “Châu Âu có thể đóng một vai trò quan trọng ở trung tâm của mạng lưới các quốc gia khác thuộc ‘Đa số Toàn cầu’”, nhưng chi tiết về cách thức thực hiện nhiệm vụ không hề đơn giản này lại không được cung cấp. Đó là những quốc gia nào? Chúng sẽ được tổ chức như thế nào? Tại sao họ nên liên kết với Châu Âu thay vì các quốc gia đã được chứng minh có năng lực AI, như Trung Quốc hay Hoa Kỳ? Đây là những câu hỏi khó cần được giải quyết để một liên minh AI thứ ba có thể khả thi.

Một liên minh AI thứ ba do Châu Âu dẫn đầu, thu hút một liên minh các quốc gia—lý tưởng nhất là bao gồm Hoa Kỳ—sẽ là một bước phát triển toàn cầu thực sự tích cực, mang lại sự đa dạng và cạnh tranh cho thị trường, đồng thời củng cố các chuẩn mực kỹ thuật số dân chủ. Để xây dựng một liên minh như vậy, Châu Âu phải tận dụng các thế mạnh hiện có của mình ngoài ngoại giao.

Châu Âu vẫn là nơi có các viện nghiên cứu và trường đại học AI và khoa học đẳng cấp thế giới, những nơi ngày càng thu hút nhân tài nước ngoài—đặc biệt là khi ngân sách khoa học của Hoa Kỳ bị cắt giảm và việc giám sát sinh viên nước ngoài ngày càng tăng. Tuy nhiên, các tổ chức này thường vẫn bị cô lập khỏi thế giới chính sách và kinh doanh. Quá nhiều trường đại học châu Âu hoạt động như những “tháp ngà”, mắc kẹt trong các cơ quan hành chính công quan liêu, không phù hợp với chính sách công hoặc lợi ích kinh doanh. Điều này cần phải thay đổi để đạt được mục tiêu chảy máu chất xám ngược ở bất kỳ quy mô nào.

Sự mất kết nối tương tự cũng ảnh hưởng đến các công ty khởi nghiệp. Châu Âu không thiếu các công ty khởi nghiệp sáng tạo và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, nhưng họ thường bị các công ty công nghệ lớn của Hoa Kỳ nuốt chửng trước khi đạt được quy mô. Tại sao vậy? Không phải vì họ ưa chuộng lối sống hay giá trị của Hoa Kỳ, mà bởi vì hệ sinh thái Hoa Kỳ cung cấp khả năng tiếp cận vốn dễ dàng, các nguồn lực bổ sung thiết yếu và một thị trường tích hợp rộng lớn. Đó là một thị trường “một cửa”.

Ngược lại, châu Âu vẫn còn phân mảnh. Bất chấp hai thập kỷ nỗ lực xây dựng một thị trường số duy nhất, mỗi quốc gia vẫn bảo vệ các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc gia của mình và mỗi quốc gia đều có cơ quan bảo vệ dữ liệu và các thực thể sở hữu trí tuệ riêng. Đã đến lúc châu Âu phải đối mặt với “những sự thật bất tiện” của mình. Việc thiếu hội nhập làm hạn chế quy mô của EU và cản trở khả năng cạnh tranh của AI. Việc phản kháng lại những thế lực chính trị hùng mạnh, cố hữu là rất khó khăn nhưng cần thiết.

Để đối đầu với ngành công nghiệp chủ đạo năng động này của châu Âu, cần phải đóng một vai trò lớn hơn. Các lĩnh vực như ô tô, tài chính, bảo hiểm và hàng xa xỉ phụ thuộc vào AI để duy trì khả năng cạnh tranh toàn cầu và cần hỗ trợ sáng kiến ​​này. Những người ủng hộ sáng kiến ​​”ngăn xếp thứ ba” đáng ghi nhận vì họ nhận ra nhu cầu này và đã nhận được sự ủng hộ của nhiều tên tuổi công nghiệp hàng đầu. Để sáng kiến ​​này có hiệu quả, nó cần vượt ra ngoài những tuyên bố chính trị ủng hộ chi tiêu công và ngăn chặn việc “rửa trôi” chủ quyền, nơi lợi ích của các tập đoàn chỉ đơn thuần là lợi dụng chương trình nghị sự về chủ quyền để đảm bảo các khoản trợ cấp ngắn hạn và ảnh hưởng chính trị. Một “ngăn xếp thứ ba” bền vững sẽ đòi hỏi nguồn vốn tư nhân ổn định, điều mà hệ sinh thái đầu tư mạo hiểm của châu Âu vẫn còn thiếu cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.

Sự hỗ trợ cần thể hiện qua các cam kết tài chính thực tế và hành động của các công ty này. Các sáng kiến ​​như đầu tư tư nhân vào “Nhà máy AI Gigafactory” thông qua chương trình InvestAI, với khoản đầu tư 20 tỷ euro cho năm nhà máy, và chương trình mua sắm “Mua hàng châu Âu” có thể hữu ích, nhưng chúng không thể thay thế cho nguồn vốn tư nhân sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở quy mô lớn. Những người ủng hộ mô hình AI Stack tại châu Âu đang nhắm đến khoản đầu tư 300 tỷ euro trong 10 năm, bao gồm Quỹ Công nghệ Quốc gia châu Âu trị giá 10 tỷ euro. Họ mong muốn “giải phóng các sáng kiến ​​tư nhân, thay vì phụ thuộc vào các thể chế và bộ máy hành chính nhà nước”.

Mặc dù khoản tài trợ này gần đạt đến quy mô phù hợp, nhưng câu hỏi vẫn còn đó liệu nó có đủ để thu hẹp khoảng cách và duy trì sức cạnh tranh của EuroStack trong tương lai gần hay không. Khoản chi tiêu này khá khiêm tốn so với khoản đầu tư của các đối thủ cạnh tranh toàn cầu. Chỉ riêng trong năm 2024, các công ty công nghệ lớn của Mỹ (Apple, Amazon, Google, Meta và Microsoft) đã tạo ra tổng doanh thu hơn 1,5 nghìn tỷ đô la và có kế hoạch đầu tư tới 320 tỷ đô la vào công nghệ AI trong 2 năm.

025. Các công ty phần mềm Hoa Kỳ đã đầu tư 181 tỷ euro vào R&D vào năm 2023, gấp khoảng 10 lần so với các đối tác EU. Khoảng cách này là một vực thẳm cần được thu hẹp đáng kể.

Trong khi đó, Trung Quốc đang đẩy nhanh đầu tư vào AI thông qua các khoản trợ cấp chiến lược, quỹ đầu tư mạo hiểm do nhà nước hậu thuẫn, quan hệ đối tác công tư và hỗ trợ các công ty hàng đầu quốc gia. DeepSeek, một đối thủ Trung Quốc của các công ty như OpenAI và Anthropic, đã được hưởng lợi từ sự hỗ trợ đáng kể của nhà nước. Trung Quốc đã đầu tư vào toàn bộ mảng AI, từ chip, siêu máy tính đến các mô hình độc lập. Nếu muốn thành công, một mảng AI thứ ba phải khả thi không chỉ như một giải pháp thay thế cho cách tiếp cận chỉ dành riêng cho Hoa Kỳ, mà còn là một đối trọng với lĩnh vực kỹ thuật số đang mở rộng của Trung Quốc.

Xét đến mức độ cạnh tranh, để phát triển một hệ sinh thái AI thực sự thay thế cho mô hình của các công ty công nghệ lớn của Mỹ hoặc Trung Quốc, liên minh các quốc gia tham gia vào nỗ lực này phải vượt ra ngoài châu Âu và thu hút các tập đoàn lớn như Samsung, Nikon và Canon, Infosys và Tata, Arms Holding và Cohere AI, v.v. Cần có một nỗ lực chung giữa khu vực công và tư, vượt ra ngoài phạm vi các doanh nghiệp châu Âu và đến một nhóm các quốc gia đối tác. Chỉ khi đó mới có thể huy động đủ nguồn tài chính.

Cuối cùng, nếu châu Âu mong muốn dẫn đầu việc phát triển một nền tảng AI thứ ba, đó sẽ là một bài kiểm tra thực tế về ý nghĩa của việc tham gia vào thị trường AI cạnh tranh với Mỹ và Trung Quốc. Khi đã thực sự tham gia, việc tỏ ra quá chính nghĩa sẽ khó khăn hơn. Thế giới đã thoáng thấy điều này trong giai đoạn cuối của cuộc tranh luận về Đạo luật AI của EU khi Pháp bác bỏ một số điều khoản của đạo luật. Giờ đây, khi Đạo luật AI của EU đang được triển khai và các yếu tố chính như Bộ quy tắc Thực hành đã được hoàn thiện, trở nên mạnh mẽ hơn nhiều so với kỳ vọng của nhiều công ty trong ngành và với sự tham gia của các công ty công nghệ Hoa Kỳ, trọng tâm hiện đang chuyển sang việc triển khai. Các nhà đổi mới sáng tạo châu Âu giờ đây phải chứng minh rằng họ có thể tạo ra các sản phẩm cạnh tranh trong khi vẫn tuân thủ chế độ quản lý mới. Kế hoạch Hành động AI của Hoa Kỳ bác bỏ rõ ràng cái mà họ gọi là “quy định nặng nề”, bãi bỏ các quy tắc trước đây về an toàn và đạo đức AI, và loại bỏ các tham chiếu đến khí hậu, thông tin sai lệch và sự đa dạng khỏi các tiêu chuẩn liên bang. Mặc dù điều này tạo điều kiện cho châu Âu đưa ra một giải pháp thay thế dựa trên giá trị, nhưng sự khác biệt như vậy sẽ chỉ thành công nếu các sản phẩm và nền tảng kết quả duy trì được tính cạnh tranh ở quy mô lớn.

Vươn ra toàn cầu

Thế giới sẽ được hưởng lợi đáng kể từ một hệ thống AI thứ ba tuân thủ các nguyên tắc dân chủ và khác biệt so với cả mô hình do nhà nước Trung Quốc thúc đẩy và mô hình do thị trường Hoa Kỳ dẫn dắt. Thực tế là không một quốc gia hay khu vực nào có thể tự mình đạt được điều này trong trung hạn. Con đường khả thi duy nhất là một nỗ lực chung với các liên minh chiến lược, một khuôn khổ quản trị chung, hành động phối hợp và các động lực kinh tế thực sự cho sự tham gia.

Nỗ lực chung này nên bao gồm Hoa Kỳ, và hệ thống AI này sẽ được củng cố từ vị thế thống trị của Hoa Kỳ trên nhiều yếu tố của hệ thống AI. Mặc dù một số quan chức quốc gia có thể coi hệ thống AI thứ ba là một mối đe dọa, nhưng tốt hơn hết nên hiểu nó là một cơ hội. Các công ty Hoa Kỳ trong lĩnh vực AI sẽ được hưởng lợi từ thị trường mở rộng cho các hệ thống AI. Nvidia và các chuyên gia bên ngoài ước tính rằng chi tiêu AI của chính phủ có thể tạo ra doanh thu từ 200 tỷ đến 1 nghìn tỷ đô la cho công ty trong những năm tới. Hơn nữa, việc cung cấp các giải pháp thay thế cơ sở hạ tầng dân chủ cho Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số của Trung Quốc, mang lại cho các quốc gia một lợi ích địa chính trị thực sự và một vai trò có ý nghĩa, nằm trong lợi ích địa chính trị của Hoa Kỳ.

Vance tuyên bố tại Paris rằng: “Hoa Kỳ muốn hợp tác với tất cả các bạn, và chúng tôi muốn bắt tay vào cuộc cách mạng AI trước mắt với tinh thần cởi mở và hợp tác.” Kế hoạch Hành động AI gần đây của Hoa Kỳ tái khẳng định mong muốn thành lập một liên minh nhưng dựa trên việc xuất khẩu “toàn bộ công nghệ AI [của Hoa Kỳ]” cho tất cả các quốc gia sẵn sàng tham gia liên minh. Điều này hoàn toàn trái ngược với mong muốn có thêm quyền tự chủ của các quốc gia châu Âu và các quốc gia khác và dường như đang rút lui khỏi lời đề nghị hợp tác và hợp tác của Vance. Mặt khác, Trung Quốc đang đọc vị tình hình, với “Kế hoạch Hành động Quản trị AI Toàn cầu” thúc đẩy ý tưởng “cùng nhau khám phá những đổi mới tiên tiến trong công nghệ AI” và “thúc đẩy hợp tác công nghệ”.

Hoa Kỳ nên phản bác điều này và ủng hộ một nền tảng AI thứ ba như một nỗ lực chung thực sự nhằm củng cố các liên minh, củng cố nền quản trị dân chủ, giảm sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của Trung Quốc và mở rộng lợi ích của AI trên toàn cầu. Châu Âu có vị thế tốt để dẫn dắt sáng kiến ​​này với mạng lưới ngoại giao và năng lực khoa học của mình, và Hoa Kỳ nên khuyến khích điều này, giống như việc đầu tư vào năng lực quốc phòng của chính mình. Mặc dù ngoại giao châu Âu rất ấn tượng, nhưng nó cần được kết hợp với việc theo dõi chặt chẽ và một kế hoạch triển khai cụ thể được ngân sách và tài trợ hợp lý. Trước đây, các sáng kiến ​​chính trị có thiện chí, chẳng hạn như Chương trình Nghị sự Lisbon những năm 2000, cam kết tăng tỷ lệ R&D trên GDP từ 2% lên 3% vào năm 2010, thường không được thực hiện. Tiến độ thực hiện đã được kiểm tra. Hai mươi lăm năm sau, cường độ R&D của Châu Âu đã tăng lên 2,1%.

Về mặt hành chính, việc giao cho Ủy ban Châu Âu thực hiện sáng kiến ​​này và tạo ra “năng lực điều phối thể chế” mới là một điều hấp dẫn, nhưng nhiệm vụ của họ đã rất bận rộn, và nó sẽ phụ thuộc vào chính sách của EC, vốn có xu hướng ủng hộ cách tiếp cận “tích tiểu thành đại” khi nguồn quỹ được phân bổ cho tất cả các quốc gia thành viên.

Thay vì cố gắng thành lập một thể chế mới, nhóm AI thứ ba nên phát triển một cách tự nhiên từ các sáng kiến ​​hiện có. Một lựa chọn là sáng kiến ​​AI hiện tại được công bố tại Hội nghị Thượng đỉnh Hành động AI Paris vào tháng 2. Mặc dù là một kết quả tốt cho hội nghị thượng đỉnh, nhưng mục tiêu phát triển “các công cụ thực tiễn, tiêu chuẩn toàn cầu và mô hình quản trị” thông qua Sáng kiến ​​Kiểm toán và Trách nhiệm Giải trình Mở lại thiếu thời hạn rõ ràng và tiến độ được chia sẻ công khai.

Một phương tiện đầy hứa hẹn hơn có thể là Quan hệ Đối tác Toàn cầu về AI (GPAI), được đặt tại OECD về mặt hành chính. Với nền tảng đa phương và cơ sở thành viên rộng lớn gồm các đồng minh và đối tác dân chủ chủ chốt, GPAI có thể xây dựng dựa trên các Nguyên tắc AI của OECD và Quy tắc Ứng xử Hiroshima của G7+ để đóng vai trò là xương sống quản trị cho nền tảng AI thứ ba. Quy trình AI Hiroshima mở rộng ra ngoài G7, bao gồm hơn 50 quốc gia “bạn bè” – nhiều quốc gia trong số đó là các quốc gia “thứ ba” – cũng như Cộng đồng Đối tác, nơi quy tụ các công ty công nghệ chủ chốt. Kết hợp với mô hình đa bên lâu đời của OECD, với sự tham gia của xã hội dân sự, tổ chức lao động và cộng đồng kỹ thuật, cấu trúc quản trị toàn cầu được kết nối này đặt nền móng cho việc thúc đẩy nền tảng AI thứ ba như một minh chứng cho khái niệm. Mặc dù đầy tham vọng, nhưng cơ hội hiện đang mở ra cho các chính phủ và đối tác cùng chí hướng hành động; nếu không, họ có thể sẽ sớm phải chịu hậu quả.

Nội dung liên quan

Lời cảm ơn và tiết lộ

Viện Brookings cam kết về chất lượng, tính độc lập và tác động.

Chúng tôi được hỗ trợ bởi một loạt các nhà tài trợ đa dạng. Phù hợp với các giá trị và chính sách của chúng tôi, mỗi ấn phẩm của Brookings thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

—————–

Making the case for a third AI technology stack​

The debate about sovereignty across digital networks, systems, and applications is not new. As early as 1996, John Perry Barlow’s “A Declaration of the Independence of Cyberspace” challenged the notion of government control over the internet. China has advocated for the need for state control over the internet for more than a decade. More recently, U.S. Vice President J.D. Vance asserted in February that the U.S. “is the leader in AI, and [the Trump] administration plans to keep it that way.” He added that “[t]he U.S. possesses all components across the full AI stack, including advanced semiconductor design, frontier algorithms, and, of course, transformational applications.”  

This ambition was formalized in July through America’s AI Action Plan, which forcefully endorses an idea of an American sovereign AI stack, espousing the “need to establish American AI—from our advanced semiconductors to our models to our applications—as the gold standard for AI worldwide and ensure our allies are building on American technology.” More recently, the administration took a 10% equity stake in Intel and expressed interest in “many more [investments] like it.” 

But exerting “sovereignty” along the AI technology stack (see Table 1)—including everything from upstream rare earth minerals and critical materials to specialized high-precision chip-making, cloud infrastructure, data centers, and advanced model training—is a considerable undertaking. Each stage of the stack represents the ingenuity and expertise of skilled workers as well as strategic control points with major economic, political, and security implications. Today, the U.S. and China dominate the full AI stack, leaving the rest of the world with a difficult implicit choice: align with one version of the stack or sit on the fence between the two. Unsatisfied with this choice and fearful of an AI-induced digital divide, a growing number of countries want to develop their own “sovereign AI” by gaining control over some, or all, of the key components of the AI tech stack.  

Initiatives to advance sovereign AI are already underway worldwide, including in the African Union, India, Brazil, and the European Union. Recently, these efforts have taken on greater urgency, attracting a wider number of respected supporters who have drafted the contours of a well-thought-out plan. Advocates argue control over at least part of the AI stack is necessary not only for economic competitiveness, but also for cultural and linguistic preservation, national security, and the ability to shape global norms. 

Some of the loudest cries for “sovereign” AI have come from Europe. The EU’s concerns are understandable given its strategic vulnerabilities. Europe accounts for just 10% of the global microchips market. Seventy-four percent of EU member states at least partially rely on U.S. cloud providers, whereas only 14% of EU countries use Chinese providers. Just 14% use EU providers even as Europe has pushed its homegrown, cloud services alternative, Gaia-X, to little effect. Over 80% of Europe’s overall technology stack is imported. The EU is also facing persistent brain drain as AI startups and talent increasingly migrate to American, Canadian, and Chinese ecosystems in search of capital and scale. 

European concerns over digital sovereignty continue long-running debates over privacy and government surveillance. The 2013 Snowden revelationsreignited tensions over transatlantic data flows, leading to legal challenges that ultimately invalidated both the original Safe Harbor agreement and its successor, Privacy Shield. These concerns were further heightened by the 2018 U.S. “Clarifying Lawful Overseas Use of Data Act” (CLOUD Act), which grants U.S. law enforcement agencies the legal authority to compel U.S. providers to provide access to the data stored on servers even if the servers are located abroad. While the European Commission (EC) was somewhat reassured by institutional responses like the Privacy and Civil Liberties Oversight Board (PCLOB), its credibility has been significantlyweakened by the Trump administration. Parallel to these concerns, the EU has built out a more assertive digital rulemaking agenda. The EC expanded its regulatory capacity with legislation including the Digital Services Act (DSA), Digital Markets Act (DMA), AI Act and Code of Practice, as well as enforcement actions targeting dominant U.S. technology firms. These efforts reflect many EU policymakers’ broader ambitions to shape the global digital rulebook and reduce strategic dependencies on foreign providers. 

Still, for many in Europe, the push for a sovereign AI stack only moved to a top priority in 2025, following Vance’s speech and the changes in U.S. foreign and trade policy, including the Trump administration’s tightened semiconductor export controls, public threats to withdraw from NATO, and a more assertive posture on international technology regulations. These shifts have raised concerns about overdependence on the U.S. AI stack, which could be abruptly cut off or rapidly altered by U.S. political dynamics. Axel Voss, a German member of the European Parliament and a leading voice on data governance and AI, has stated, “we do not have a reliable U.S. partner any longer” and that Europe should develop its own “sovereign AI and secure cloud.” A leading proponent of European AI sovereignty, Cristine Caffra, puts it: “If our roads, water, our electricity, our trains and our airports were largely in foreign hands, we would find that unacceptable.”

A global rationale for a third AI stack  

Beyond sovereignty, there is a strong global rationale for Europe charting the course for a “third AI technology stack.” It would diversify and stoke market competition beyond the current geographic segments of the U.S. and China, increase technical and values-based innovation, and provide countries with an alternative aligned with democratic norms and product features that consumers want, including transparency, trustworthiness, and accountability. In this sense, a European-led AI Stack could differentiate itself by raising the bar on data governance policies, monitoring and reporting standards, and environmental impact.  

Currently, the geopolitical landscape is often seen as dominated by two players. The United States holds early technology firm market dominance and is deeply integrated in global economic systems, reinforced by leadership in organizations like the G7 and the Organization for Economic Cooperation and Development (OECD). China promotes its own infrastructure through programs like the Digital Silk Road and exerts geopolitical influence via BRICS and its own Global AI Governance Action Plan. A more competitive EU in the global AI industry could establish a “third path forward” rooted in democratic values and fundamental rights. While this aspiration makes good rhetoric, is it realistic?   

Realistic or rhetoric?  

In short, the answer is no: Maximalist visions of AI sovereignty are not realistic—not for Europe, and not for any country or region, including the United States. Despite Vance’s assertion, even the U.S. does not have complete control over the whole stack: The Taiwan Semiconductor Manufacturing Company (TSMC) produces nearly all of Nvidia’s chips. In turn, TSMC depends on Dutch firm ASML for the advanced extreme ultraviolet (EUV) lithography machines needed to make AI graphics processing unit (GPU) chips. TSMC owned more than half of the world’s EUV machines as of the end of 2023, and ASML is the exclusive supplier. These machines integrate a range of technologies including German optical systems and tin sourced globally. Throughout the AI stack, foundational technologies rely on rare metals and materials with limited sources in mines around the world. 

This intricate global technology interdependence reflects decades of accumulated expertise and specialization leading to comparative advantage which cannot be easily replicated, even in the medium term, despite U.S. efforts to “restore American semiconductor manufacturing” through policies such as America’s AI Action Plan and the CHIPS and Science Act that invest in semiconductor factories and streamline permitting. In addition to its weakened position in digital technologies, Europe also faces what former Italian Prime Minister Mario Draghi called an “innovation gap.” EU countries must manage the costly political imperativesof remilitarization, as well as ballooning social welfare costs and budget deficits. 

Developing a European-led third AI stack: confronting inconvenient truths 

These pressures have forced a pragmatic shift. Even the most ardent proponents of a European-led AI stack, or a “EuroStack,” have backed off from complete, absolute sovereignty to “creat[ing] some space for European technology” and clarifying that this vision “is not about closing the EU off from the world — quite the opposite. It is about … fostering trusted international partnerships.” Politicians like European Parliamentarian Eva Maydell have gone further, telling Europeans to “sober up.”  

A more realistic strategy is for the EU to control layers of the stack where it has a comparative advantage. This would give it enough leverage to achieve strategic interdependence and secure a seat at the table. Akin to a security pact, strategic interdependence allows innovation to thrive and competition to exist and collectively can ensure all members’ security. The EU could lead the development of a third AI stack, co-built through partnerships with “like-minded” or “third-place” countries such as Brazil, Canada, India, Japan, Kenya, Korea, and Nigeria, the United Arab Emirates (UAE), and the United Kingdom, all of whom have a similar strategic interest in creating a third stack more independent of China and the U.S. and have cutting-edge expertise along segments of the AI stack. Already, EuroStack proponents recognize India’s Digital Public Infrastructure as a model. Korea’s Samsung had the highest global revenue for semiconductors in 2024 and could carve out a significant niche in the market through its Mach-1 inference chips that appear to be more power efficient than traditional High-Bandwidth Memory used in traditional Nvidia chips. Japan’s Canon and Nikon are developing nanoimprint and Argon-Fluoride lithography that could replace EUVs. And the U.K. is widely recognized as a leader in AI science, research, and startup innovation. Add these countries to Europe’s domestic capabilities and the contours of a credible third AI stack emerge. 

While Europe already has well-cultivated ties with some of these partners, it needs to double down on developing these connections into true alliances and position itself at the epicenter of this coalition. While proponents of a EuroStack acknowledge: “…cooperation should be sought with third-party states which share common goals and may also have privileged access to certain inputs…” and “Europe can play a major role at the centre of a network of other countries of the ‘Global Majority,’” details are not provided on how to accomplish this non-trivial task. Which are the countries? How will they be organized? Why should they align with Europe instead of countries with proven AI capability, like China or the United States? These are difficult questions that need to be addressed for a third AI stack to be viable. 

A European-led third AI stack that engages a coalition of countries—ideally including the United States—would be a truly positive global development, providing market diversity and competition and reinforcing democratic digital norms. To build such a coalition, Europe must leverage its existing strengths beyond diplomacy.  

Europe remains home to world-class AI and science institutes and universities, which increasingly attract foreign talent—particularly as U.S. science budgets are cut and scrutiny of foreign students ramps up. This said, these institutions often remain siloed from the world of policy and business. Too many European universities operate as “ivory towers,” stuck in bureaucratic public administrations misaligned with public policy or business interests. This needs to change to achieve reverse brain-drain of any magnitude.   

The same disconnect affects startups. Europe has no shortage of innovative startups and entrepreneurial leaders, but typically they are swallowed up by U.S. Big Tech before reaching scale. Why is this? It is not because they prefer the U.S. way of life or values, but because the U.S. ecosystem offers easy access to capital, essential complementary resources, and a vast integrated market. It is a one-stop shop.  

Europe, by contrast, remains fragmented. Despite two decades of digital single-market efforts, each country protects its national telecom providers, and each country has its own data protection authorities and intellectual property entities. It is time for Europe to confront its “inconvenient truths.” The lack of integration limits the EU’s scale and impedes AI competitiveness. Pushing back on entrenched, politically powerful incumbents is difficult but necessary.  

To confront this dynamic, mainstream European industry must play a larger role. Sectors, such as automotive, finance, insurance, and luxury goods, depend on AI to remain globally competitive and need to support this initiative. To the credit of third stack proponents, they recognize this needand have garnered the support of many leading industrial names. For this to be effective, it needs to go beyond political declarations arguing for public expenditures and guard against sovereignty washing, where corporate interests merely co-opt the sovereignty agenda to secure short-term subsidies and political influence. A durable third stack will require sustained private capital, something Europe’s venture ecosystem still lacks in depth and breadth 

Support needs to manifest itself in real financial commitments and action by these firms. Initiatives such as the private investment in “AI Gigafactories” through the InvestAI program, which seeks €20 billion for five factories, and “Buy European” procurement can help, but they are not substitutes for private capital willing to take risks at scale. European AI stack proponents are targeting an investment of €300 billion over 10 years, including a €10 billion European Sovereign Tech Fund. They seek “to liberate private initiative, not to rely on institutions and state bureaucracy.” 

While this approaches the right magnitude of funding, the question remains whether it will be enough to close the gap and keep the EuroStack competitive in the near term. This spending is modest compared to the investment of global competitors. U.S. Big Tech (Apple, Amazon, Google, Meta, and Microsoft) collectively made over $1.5 trillion in revenue in 2024 alone and have plans to invest up to $320 billion on AI technologies in 2025. U.S. software companies invested €181 billion in R&D in 2023, about 10 times more than their EU counterparts. The gap is a chasm that will require massive investment to narrow.  

Meanwhile, China is accelerating its AI investments through strategic subsidies, state-backed venture funds, public-private partnerships, and support for national champions. DeepSeek, a Chinese rival to companies like OpenAI and Anthropic, has benefited from substantial state support. China has invested across the entire AI stack, from chips to supercomputing to sovereign models. A third AI stack, if it is to succeed, must be viable not only as an alternative to a U.S.-only approach, but also as a counterweight to China’s expanding digital sphere. 

Given the level of play, to develop a real AI alternative ecosystem to U.S. Big Tech or China’s model, the coalition of countries involved in this effort has to go beyond Europe and draw in powerhouses like Samsung, Nikon and Canon, Infosys and Tata, Arms Holding and Cohere AI, to name a few. A collective public-private effort is needed that extends beyond European businesses to a constellation of partner countries. Only then can sufficient funding be amassed.  

Lastly, if Europe aspires to lead the development of a third AI stack, it will be a reality check on what it means to be in the AI market competing with the U.S and China. With real skin in the game, it will be more difficult to be too righteous. The world saw a glimpse of this in the final stage of the EU AI Act drama as France pushed back on some of its provisions. Now, as the EU AI Act is being implemented and key elements like the Code of Practice have been finalized, emerging stronger than many industry players had hoped and with sign-on from U.S. technology companies, the focus now shifts to implementation. European innovators must now prove that they can create competitive products while adhering to the new regulatory regime. The U.S. AI Action Plan explicitly rejects what it calls “onerous regulation,” withdrawing prior rules on AI safety and ethics, and removing references to climate, misinformation, and diversity from federal standards. While this creates room for Europe to offer a values-based alternative, such differentiation will only succeed if the resulting products and platforms remain competitive at scale. 

Going global 

The world would significantly benefit from a third AI stack that adheres to democratic principles and is distinct from both the Chinese state-driven and U.S. market-led models. The reality is that no one country or region by itself can achieve this in the medium term. The only viable path is a collective effort with strategic alliances, a shared governance framework, coordinated action, and real economic incentives for participation.

This collective effort should include the United States, and the stack would be strengthened from the U.S.’s dominant position across many elements of the AI stack. While some national officials may view a third stack as a threat, it is better understood as an opportunity. U.S. firms across the AI stack would benefit from an expanded market for AI systems. Nvidia and external experts estimate that sovereign AI spending could generate anywhere from $200 billion to $1 trillion in revenue for the company in the coming years. Moreover, it is in the U.S.’s geopolitical interest to offer democratic infrastructure alternatives to China’s Digital Silk Road, giving countries a genuine stake and meaningful role.

Vance stated in Paris that, “America wants to partner with all of you, and we want to embark on the AI revolution before us with a spirit of openness and collaboration.” The recent U.S. AI Action Plan reiterates the desire to form an alliance but one based on exporting the “full [U.S.] AI technology stack” to all countries willing to join the alliance. This is in stark contrast to European and other countries’ desire for more autonomy and seems to retreat from Vance’s offer to partner and collaborate. China on the other hand is reading the room, with its “Global AI Governance Action Plan” promoting the idea to “jointly explore cutting-edge innovations in AI technology” and “promote technological cooperation.”  

The U.S. should counter this and support a third AI stack as a genuine joint effort that strengthens alliances, reinforces democratic governance, reduces reliance on Chinese infrastructure, and extends AI’s benefits globally. Europe is well-positioned to lead this initiative with its diplomatic networks and scientific capacity, and the U.S. should encourage it, as it would with investment in its own defense capabilities. While European diplomacy is impressive, it needs to be matched with nuts-and-bolts follow-up and a concrete implementation plan that is properly budgeted and funded. Too often in the past, well-intentioned political initiatives, like the Lisbon Agenda of 2000s, which pledged to increase the R&D to GDP ratio from 2% to 3% by 2010, lacked follow-through. Twenty-five years later, Europe’s R&D intensity has increased to 2.1%. 

Administratively, it will be tempting to task the European Commission to stand this initiative up and create new “institutional coordination capacity,” but their plates are already very full, and it would be subject to EC politics which tend to favor a “spray and pray” approach as funds get dispersed across all the member countries.  

Rather than trying to establish a new institution, the third AI stack should grow organically out of existing initiatives. One option is the Current AIinitiative announced at the Paris AI Action Summit in February. While a good deliverable for the summit, the goal to develop “practical tools, global standards, and governance models” through its Open Auditing and Accountability Initiative lacks clear deadlines and publicly shared progress.

A more promising vehicle may be the Global Partnership on AI (GPAI), housed administratively in the OECD. With its multilateral foundation and broad member base of key democratic allies and partners, GPAI could build on the OECD AI Principles and G7+’s Hiroshima Code of Conduct to serve as the governance backbone for the third AI stack. The Hiroshima AI Process extends well beyond the G7, including more than 50 “friend” countries—many of them “third-place” nations—as well as the Partners’ Community, which brings in key technology companies. Coupled with the OECD’s longstanding multistakeholder model, involving civil society, organized labor, and the technical community, this networked global governance structure lays the groundwork to advance a third AI stack as a proof of concept. While ambitious, the window of opportunity is now for like-minded governments and partners to act; if they do not, the die may soon be cast.

Related Content

  • Acknowledgements and disclosures

The Brookings Institution is committed to quality, independence, and impact.
We are supported by a diverse array of funders. In line with our values and policies, each Brookings publication represents the sole views of its author(s).

RELATED ARTICLES

13 COMMENTS

  1. Choose Party Bus Miami for the most exciting way to celebrate! Whether it’s a kids party bus Miami adventure or a vibrant birthday party bus Miami, our fleet is fully equipped. Ride in a dazzling Miami Beach party bus, or party nonstop with our party bus with pole Miami or elegant prom party bus Miami.

  2. Celebrate life on the move with a Birthday Party Bus Miami! This is not just a ride, it’s an event. Our Kids & Adult Birthday Party Bus Miami brings everyone together for fun. Get your hands on a Luxury Birthday Party Bus Miami and party on the best Party Bus for Birthday in Miami!

  3. Explore wheelchair-accessible car services and group transportation alternatives in Washington DC. With a plethora of options, including shuttles and general transportation, the capital ensures seamless travel experiences. Consider KVLIMO for top-tier transportation solutions that prioritize comfort and reliability.

  4. Experience the ease of Nassau Airport Shuttle Transfer with timely group airport shuttle Nassau Bahamas. Our Nassau airport shuttle service and private Nassau airport transportation make every shuttle transfer from Nassau airport comfortable.

  5. Choose Luxury Chauffeur Services Dubai for dependable, discreet, and stylish transport. Ride in a Chauffeur Driven Car Dubai with experienced professionals. Whether it’s a VIP Chauffeur Dubai or Private Driver Service Dubai, we provide world-class travel solutions for executives, events, and luxury-minded visitors to Dubai.

  6. Book a Pickup from Dubai International Airport for a stress-free start to your trip. We offer Private Airport Transfer Dubai, Dubai Airport to Hotel Shuttle, and Dubai Airport Executive Transfer for business and leisure travelers. Choose a Dubai Airport Limousine Transfer for an elegant ride.

  7. For reliable airport transfers, choose Black Tie Transport for your shuttle service from Rancho Cucamonga to LAX. Their affordable LAX shuttle options, luxury car services, and private car transportation ensure comfort and efficiency. From SUV transportation to seamless Rancho Cucamonga airport transfers, enjoy hassle-free LAX transportation services.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Most Popular