Năm 1979 tôi được 16, nếu tính luôn cả tuổi mụ thì cũng chỉ được 17, chưa đủ “tiêu chuẩn” để gọi là thanh niên. Cái chữ đói vẫn đeo bám cho dù không như thời điểm kinh hoàng nhất là năm 1977. Chiến tranh Việt – Miên đang đến hồi tàn khốc. Công cuộc “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” vẫn đang râm ran. Cộng đồng người Việt gốc Hoa là bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Đây đó có người tự tử, thậm chí có gia đình bỏ thuốc chuột vào nồi canh để cùng “đi”. Người Hoa lập thành nhóm “hồi cố quốc” bằng đường bộ ra đến tận biên giới Việt – Trung, nhưng đa phần những người gốc Hoa ở miền Nam làm đơn để được đi chính thức (dĩ nhiên nhà nước thu lợi hàng núi vàng của họ). Một bầu không khí ảm đạm bao trùm cả miền Nam.
Miền Bắc ra sao thì tôi không biết, nhưng có lẽ bởi miền Bắc đã từng bị băm nát nên chẳng còn gì để mất! Hai chữ vượt biên thầm thì vào tai giữa những người tin tưởng nhau. Câu vè thời đó “Một: con nuôi má, Hai: con nuôi cá, Ba: má nuôi con” làm cả miền nam lên cơn sốt. Tôi ở trung tâm thị xã Nha Trang (sau này mới lên cấp Thành phố), thường đi bộ hoặc mượn xe đạp của ông già đi khoảng 5 cây số xuống Xóm Cồn chơi với bạn bè, đồng thời dò tìm “con đường bác hồ đã đi”. Từng xảy ra vụ Huỳnh Hừng ở Xóm Cồn tổ chức vượt biên, thu vàng rồi thủ tiêu người giữa biển khơi. Có người sống sót được vớt qua Mỹ hoặc Úc gì đó, đã tố cáo với chánh quyền sở tại. Từ họ báo về bên VN cho nên vụ này mới bị đổ bể. Nghe đâu lục soát được hàng chục ký vàng chôn dấu hoặc gói cất trên ngọn dừa. Số vàng đó về đâu thì không thấy nói, chỉ biết Huỳnh Hừng bị trói gô gốc dừa để xử bắn thị uy.
Năm đó tôi đang học lớp 10 (cấp 3 Nguyễn Văn Trỗi, tức trường Nam tiểu học Nha Trang cũ ở đường Hàn Thuyên). Cái thời miệng vừa nhai khoai mì vừa nhai…nhải “5 điều bác Hồ dạy” đó thì làm gì biết đến thời sự quốc tế ngoài loa phường của “đảng và nhà nước ta”. Dân chỉ thuận nhĩ với tin đồn. Tất cả báo, đài đều chung một dàn giao hưởng tô hồng chế độ. Cả nước đói phờ phạc mà hàng ngày lỗ tai phải chịu tra tấn về các cánh đồng 5 tấn, 8 tấn, 10 tấn… nói tóm lại là tăng năng xuất lao động ào ào theo dạng…ảo ảo.
Vừa mới hết chiến tranh, Hà Nội nợ đầm đìa tiền vũ khí. Nợ cả ân tình với các nước trong khối cộng sản, nhứt là món nợ máu xương của cố vấn và lính Tàu sang giúp. Tình đồng chí Việt – Trung quan trọng đến mức được mô tả như “môi hở, răng lạnh”, nhưng…
Nhưng cái gì phải đến đã đến. Tôi nhớ như in, hôm đó là buổi học cuối tuần: thứ bảy, ngày 17 tháng Hai năm 1979. Buổi sáng, giờ chào cờ (máu) rống họng hát xong hai bài “Đoàn quân VN đi…” và “Sao vàng rách nát ánh hồng chói chang, toàn VN đắm chìm hầm tối, HCM dắt toàn dân xuống hang…” vừa xong thì bà hiệu trưởng, bằng một giọng kích động cực độ, thông báo: “Bọn bành trướng Bắc Kinh đã phản bội lý tưởng cộng sản, xua quân qua biên giới, tấn công sáu tỉnh miền Bắc Việt Nam…”. Tiếp theo là quyết định thay hết các tiết học bằng các buổi học tập chính trị và thảo luận theo nhóm lớp.
Trong lớp, mặt thầy cô thì đằng đằng sát khí (chắc giả vờ) nhưng bọn trẻ chúng tôi thì thất thần thấy rõ bởi rất sợ cái bầu không khí nặng nề đó. Mỗi lớp có một thầy hoặc cô chủ nhiệm, nhưng hôm đó thì thầy/cô chủ nhiệm chỉ dự thính để thầy/cô bộ môn chánh trị đứng lớp. Thầy chủ nhiệm lớp tôi mời cô giáo chính trị, một người từ miền Bắc vào, chủ trì cho ngày hôm đó. Cả lớp há hốc nghe cô kể tội bọn bành trướng Bắc Kinh tàn ác ra sao, chúng đã có âm mưu đen tối với Việt Nam từ khi nào, Mao Trạch Đông đồi bại, tàn ác ra sao v.v… và v.v… Tóm lại toàn là chuyện quay ngoắt 180° so với những gì mà chúng tôi đã được “học” cũng từ chính cái miệng của cô từ cái mốc ngày 17 tháng Hai về trước. Thế là từ “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông…” hoặc “Bác Hồ ta đó chính là bác Mao…” đã thay bằng các khẩu hiệu đả đảo bành trướng Bắc Kinh xâm lược !!! Cô còn trịnh trọng viết lên bảng đen và buộc chúng tôi chép lại. Tất cả phải học thuộc lòng cái tinh thần yêu nước của một cô bé Trần Nguyễn Khánh Chi, học sinh lớp 7 nào đó (nhỏ hơn tôi 3 tuổi?) ở Hà Nội (chắc phịa thôi). Cần nói thêm rằng tôi nhớ rất rõ tên bài thơ là “Họ cũng là người mà sao ác thế”, nhưng tên tác giả Trần Nguyễn Khánh Chi thì không dám khẳng định. Mặc dù tôi đã từng cố gắng tìm kiếm và hỏi qua rất nhiều người đã cùng trải qua thời đó, nhưng mà chẳng ai nhớ. Chẳng lẽ trí nhớ của tôi tốt vậy sao?
Tuy gọi là thơ nhưng chẳng có chút gì là thơ. Gọi vè cũng không xong. Nó rặt một mùi sắt máu, chữ nghiã thì lổm chổm như đá cuội trộn lẫn đá tai bèo, nhưng vẫn phải học thuộc lòng nếu như không muốn bị mất điểm đạo đức, bị phê bình hạnh kiểm trong chế độ hồng hơn chuyên này. Giữa giờ “học” thì bà hiệu trưởng đến từng lớp để thông báo: “Ngày mai (chủ nhật) toàn thể trường phải tham dự mít tinh… “.
Sáng chủ nhật 18/02/1979, vừa húp xong chén cháo loãng, tôi vội vàng xỏ dép chạy đến trường. Tập trung điểm danh xong rồi rồng rắn kéo nhau tới sân banh (đối diện với bệnh viện đa khoa Nha Trang). Nơi đó đã ngập tràn người, chủ yếu là công nhân và học sinh bị lùa về để lên đồng tập thể. Cơ man nào là cờ, băng rôn và mùi mồ hôi tràn khắp.
Quyết định tiếp theo của đảng và nhà nước là toàn dân phải học tập quân sự, chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Chen giữa những giờ lao động của công nhân và giờ học ở trường là các buổi tập lăn lê bò toài. Trang bị cá nhân gồm súng gỗ và lựu đạn chày gỗ tự làm. Lệnh xuống thì phải theo thôi, đố ai dám làm trái. Thế là các chủng loại súng không ra súng và các lựu đạn chày bằng gỗ được đẻo gọt nham nhở buộc lủng lẳng bên hông, bất luận là nam hay nữ. Cũng may thời đó một năm chỉ hai thước vải thô nên hầu như chẳng ai mặc áo dài, nếu không thì buồn cười biết mấy (nói vui thôi, thiệt ra là đã cấm ai quen với áo dài thì không được mặc). Lần nọ, trong giờ tập có một cô bạn gái chung trường lăn lê, bò toài để béng béng và ném lựu đạn hăng quá, toác cả chỉ quần bèn ngồi khóc như bác Hồ chết thêm lần nữa. Khóc vì ngượng và vì tiếc cho cái quần (nghèo quá mà). Có đứa u đầu, bưu trán vì bạn lỡ tay ném lựu đạn gỗ trúng. Đúng là cảnh cười ra nước mắt.
Chúng tôi còn phải học các bài hát mới về chủ đề chiến tranh chống Tàu. Nhiều bài cũng khá hay về giai điệu. Tôi biết ti toe thổi harmonica và chơi tàm tạm guitar nên có nhiều bạn thường tập trung tại nhà tôi để tập. Bạn bè trai gái gom góp đứa trái cóc, trái ổi, kể cả bánh tráng nướng đem tới. Hầu như đêm nào cũng mất điện, phải thắp đèn dầu hôi. Khổ thân vì muỗi mòng. Phải liên tục dừng gãi đờn để gãi chưn tay. Có lần tập đi tập lại bài “Ngày mai anh lên đường, ngày mai anh ra chiến trường để lại em yêu dấu có khoảng trời rừng núi, lung linh ngàn vì sao sáng trên đường hành quân diệt thù… Như hoa phong lan chờ đợi, mưa gió không phai tàn…” thì ông già nằm trên võng lầm bầm :
– Phản tự nhiên, chỉ có hoa nhựa mới không phai tàn theo mưa gió !!! Tôi thính tai nghe được nên hỏi lại :
– Nếu Ba chán thì tụi con tập bài khác, Ba biểu bài gì nè ?
– Tao nghe cái bài gì mà “Đoàn quân vội đi… ” còn đường được. Tôi phản đòn ngay:
– Bài đó cũng phản tự nhiên, Ba! Làm gì có “những đôi mắt mang hình viên đạn”, có mà mắt lồi ốc bưu á…hihihi
Ba tôi cũng bật cười, chống chế “Nhưng trong bài đó còn có chút chất nhạc, còn hơn tụi bây tra tấn tao bằng những bài khác.”
Quả thật, nhạc sĩ Trần Tiến viết bài này rất hay, tôi cũng đồng ý với Ba tôi…..
Không thể nhớ rõ hơn cho đến khi nào thì chúng tôi mới được phép chấm dứt những buổi tập quân sự cười ra nước mắt, những buổi tập văn nghệ dưới ánh đèn dầu đập muỗi bồm bộp, những tiết học chính trị căng thẳng, những cuộc mít tinh lên đồng tập thể đến khản cả họng… Nhưng có lẽ dễ chừng cũng vài tháng liên tục như vậy.
Chiến tranh đến rồi chiến tranh tàn. Uổng xương máu chiến sĩ, đồng bào đã đổ xuống để đổi lấy trở lại những cái bắt tay và những chiếc hôn nồng ấm tình đồng chí giữa các lãnh đạo của hai nước như xưa. Còn tệ hơn xưa là đằng khác, bởi vì khi từ Thành Đô trở về thì lãnh đạo đảng đã cấm nhân dân ta không được thể hiện lòng yêu nước trước kẻ thù phương Bắc nữa. Chiếc vòng kim cô lấp lánh 16 chữ vàng và 4 tốt kèm theo lời bảo đảm cho quyền lực mà Bắc Kinh rỉ vào tai họ. Cuộc đổi chác sau lưng người dân đó không thể nào chối cãi khi mà chỉ còn một năm nữa thôi, Hoàng Sa, máu thịt của Việt Nam ta, sẽ mãi mãi là Tây Sa của giặc phương Bắc.
Thằng Tàu chẳng phải quá kinh thâm như ta tưởng, mà bởi chính cái đảng cộng sản Việt Nam quá hèn nhát. Hèn vì không dám bước qua nỗi sợ hãi bị mất quyền lực, mà nhờ quyền lực đó hòng bóc lột chính đồng bào mình. Họ phải đành khấu đầu với Bắc Kinh sau khi Đông Âu và Liên Bang Xô Viết “vĩ đại” tan rã như băng tuyết dưới ánh mặt trời. Mùa xuân nào tươi đẹp bằng Mùa Xuân Tự Do, thưa tuổi trẻ Việt Nam?
Sự kiện 17 tháng Hai năm 1979 cũng như những vết thương Cải cách ruộng đất, Nhân văn và Giai phẩm, Mậu Thân – Huế 1968, Cải tạo công thương nghiệp miền Nam, Boat People… Vết thương ngày 17/2/1979 đến nay vừa đúng 44 năm nhưng chưa bao giờ lành miệng trong tâm khảm của người dân Việt Nam yêu nước.
Các bạn trẻ của tôi ơi, những gì tôi kể với các bạn như một lời kinh khấn nguyện: Cầu mong cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi những đau thương mà hệ lụy của nó chẳng đến từ đâu xa. Nó đến chính từ sự xảo quyệt, tráo trở, nhổ và liếm của đảng cộng sản Việt Nam. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc. Hãy đem ánh nắng mùa xuân để làm tan chảy khối băng cộng sản độc tài như những dân tộc khác đã và đang làm. Tôi tin vào tuổi trẻ sẽ làm nên lịch sử.
▪︎Viết thêm: Hôm nay, ngày 10/02 là giỗ lần thứ 9 của Ba tôi. Nhân đây mới nhớ lại thời tôi học bài “Bình Ngô đại cáo” thì Ba tôi, thường nằm lim dim trên võng, cứ bắt tôi phải đọc thiệt to. Nhứt là đoạn đầu “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận…”. Mãi về sau này, khi có thêm được trí khôn, thì tôi mới hiểu thâm ý của Ba tôi. Ba ơi, con sẽ không bao giờ làm Ba thất vọng đâu. Kính Ba ngủ ngon.