Đã hơn bốn thập niên Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, quá khứ chiến tranh đã thành tro tàn, những người “tham gia” vào cuộc chiến 1954-1975 không còn bao nhiêu người. Phe chiến thắng, những người lãnh đạo đất nước hôm nay, cũng không có mấy người có dính líu vào cuộc chiến. Dầu vậy lòng hận thù của phe chiến thắng, tức những người đang lãnh đạo hiện nay, vẫn còn sâu sắc đối với phe chiến bại, tức chế độ Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa. Từ trong lịch sử, những bộ sử mới nhứt được phát hành, VNCH vẫn bị xem là “tập đoàn đánh thuê”. Đến thực tế bên ngoài, cả một chính sách “phân bệt vùng miền” đã và đang ráo riết được áp dụng.
Bất cứ những ai có liên quan xa gần đến VNCH đều bị trừng trị nặng nề, bằng cách này hay cách khác. Nhiều vụ án, từ một đứa bé 14 tuổi, hay những người trẻ vô tư, chỉ vì mặc áo có hình “giống như” cờ VNCH đã bị Tòa kết án nặng nề. Một chiếc xe, chủ xe sơn ca pot màu vàng có sọc đỏ, cũng bị công an truy bức, bắt bớ không biết bây giờ ra sao. Dân tộc miền Nam, nhứt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, được mệnh danh là “vùng trũng của giáo dục”. Không chỉ về giáo dục, ngay cả các đầu tư về hạ tầng cơ sở cho kinh tế như đường xá, cầu cống, mạng lưới điện… miền Nam luôn “bị” quên trong các kế hoạch kinh tế dài hạn của đảng CSVN.
Chính sách này đã kéo dài hơn 4 thập niên. Dân đồng bằng SCL, từ thời còn thuộc Pháp, luôn là “đầu tàu” cho kinh tế cả nước nhờ vào sản xuất lúa gạo. Nay lại trở thành một “gánh nặng” cho quốc gia. Người dân ở đây nghèo không thể tưởng. Ruộng đất không còn (hay không có). Con trai lớn lên thì bỏ xứ ra thành đi làm công nhân. Con gái thì lạc loài tứ xứ, đứa có nhan sắc thì làm đĩ, làm thiếp cho người nước ngoài (Đài loan, Đại Hàn, TQ…). Đứa không có nhan sắc thì làm cu li, làm con ở…
Không ngoại lệ, bất kỳ một lãnh tụ công sản nào cũng “khoe” nhan sắc của người phụ nữ VN, xem đó như một “đòn bẫy” để phát triển kinh tế. Không biết vợ, con gái, cháu gái… của các lãnh tụ này có “xung phong” đi đầu trong phong trào “bán thân cứu nước” của các lãnh đạo công sản hay không. Ta không hề thấy một tiếng nói của hội bảo vệ phụ nữ, hội bảo vệ nhân phẩm… lên tiếng phản đối. Bởi vì phong trào “bán thân cứu nước” này chỉ có ở miền Nam, ở nơi gọi là “vùng trũng của giáo dục”.
Chính sách “thù hận”, phân biệt vùng miền này đã gây ung nhọt trên cơ thể dân tộc VN. Miền Nam (dưới vĩ tuyến 17) đã trở thành một “thuộc địa”. Đảng CSVN đã rớt mặt nạ “yêu nước” trở thành một lực lượng “nội xâm”.
Đó là “vấn nạn” thuộc về “nội bộ”.
Về “đối ngoại”, chính sách miền Nam thuộc địa của đảng CSVN lại gây nguy hiểm cho chủ quyền lãnh thổ cũng như vùng biển của VN ở Biển Đông.
Bởi vì trên phương diện pháp lý quốc tế, chủ quyền của VN ở Hoàng Sa và Trường Sa dính liền với Việt Nam Cộng Hòa hay các nhà nước tiền nhiệm. Tất cả các bằng chứng nhằm chứng minh chủ quyền của VN tại hai quần đảo này, không ngoại lệ, đều đến từ các nhà nước mà CSVN coi là kẻ thù.
Hoàng Sa, Trường Sa đã được các triều nhà Nguyễn khám phá, khai thác và quản lý liên tục hàng thế kỷ trong hòa bình. Sang đến thời nhà nước bảo hộ Pháp, quần đảo HS được nhà nước này tuyên bố chủ quyền trước quốc tế, lý do thâu hồi một lãnh thổ của nhà Nguyễn mà Pháp có nhiệm vụ bảo hộ. Quần đảo Trường Sa cũng được nhà nước bảo hộ Pháp sáp nhập vào VN với danh nghĩa sáp nhập một lãnh thổ vô chủ.
Chủ quyền hai quần đảo này được đệ nhứt và đệ nhị VNCH kế thừa.
Chủ quyền của VN tại HS và TS như vậy là liên tục. Các nhà nước VN đã tiếp nối quản lý, khai thác hai quần đảo này trong hòa bình, không gặp quốc gia nào chống đối, (ngoại trừ TQ lên tiếng tranh chấp với Pháp ở quần đảo HS).
Nhưng đối với CSVN, triều đình nhà Nguyễn là “bọn phong kiến”. Vua Gia Long, sáng lập lên nhà Nguyễn, người có công mở nước đến mũi Cà Mau, bị buộc tội “cõng rắn cắn gà nhà”. Một trong những mục tiêu “khởi nghĩa”, “làm cách mạng” của đảng CSVN là “bài phong”. Sang thời thực dân, mục tiêu trở thành “bài phong, đả thực”. “Thực” là thực dân. Đến thời VNCH thì “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào”. “Ngụy” ở đây là chính quyền VNCH (với ông Diệm, ông Thiệu).
Tất cả những nhà nước VN chiếm hữu, tuyên bố chủ quyền ở HS và TS đều là kẻ thù “không đội trời chung” của đảng CSVN.
Nói đến nhà Nguyễn, nhà nước thực dân thì quá xa. VNCH bị CSVN gọi là “ngụy”. Bằng cách nào chủ quyền VNCH ở HS và TS được chuyển sang nhà nước CHXHVN hôm nay ?
“Ngụy” là cái không thật. Nhà nước “ngụy” là nhà nước “bình phong”, làm tay sai cho ngoại bang.
Làm thế nào để “kế thừa” HS và TS ở một nhà nước “phong kiến”, sau đó nhà nước “thực dân”, mà từ căn bản “cách mạng” là thề thốt “bài phong đả thực” tiêu diệt chúng. Làm thế nào kế thừa một tập đoàn tay sai, một tập đoàn đánh thuê ? Làm thế nào để kế thừa ở cái “không thật”?
Bộ ngoại giao VN hôm nay, cũng như các học giả xuất thân, đều lớn tiếng nói rằng HS và TS là của VN. Không loại trừ, ai cũng đưa các bằng chứng từ thời nhà Nguyễn, thời thực dân, thời “ngụy” VNCH để chứng minh HS và TS thuộc VN.
Nhà nưóc VN hôm nay vẫn xem VNCH là kẻ thù, vẫn còn phân biệt đối xử với dân miền Nam, vẫn còn xem những tư tưởng “khác với đảng” là phản động, thì làm thế nào hồ sơ kế thừa HS và TS có thể thiết lập ?
Tất cả những gì dính líu đến VNCN, từ cái “giống với lá cờ”, đều bị trừng phạt nặng nề. Tất cả những nghĩa trang của người lính VNCH đều bị san bằng, cào sạch, ngoại trừ nghĩa trang Biên Hòa. Nhà nước CSVN không “cào bằng” vì nó “lộ liễu” quá. Nhưng họ nghiêm cấm, không cho những thân nhân người chết đến trùng tu nghĩa trang. Thâm độc là họ cho trồng những loại cây có khả năng lớn lên, rể sẽ đội lên, “bứng” những ngôi mộ ra khỏi lòng đất. Rốt cục mục tiêu “cào bằng” của họ cũng thành công (mà không mang tiếng trả thù).
Biết bao nhiêu lần tôi đặt câu hỏi cho học giả VNXHCN, bằng cách nào CHXHCNVN đã kế thừa HS và TS từ VNCH ?
Anh có thể ăn cướp của cải của một người mà anh xem là kẻ thù nhưng anh không thể kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào của người đó.
Tôi tham gia vào nghiên cứu vấn đề chủ quyền biển đảo, biên giới lãnh thổ từ những năm tôi ở tuổi bốn mươi. Đến nay đã qua lục tuần, rõ ràng là rất mõi mệt.
Hồ sơ của tôi về chủ quyền của VN hiện nay ở HS và TS chỉ đơn giản ở hai điều: 1/ kế thừa VNCH và 2/ lý thuyết về “quốc gia chưa hoàn tất”, hoàn cảnh các “quốc gia bị phân chia” (như Nam, Bắc Hàn; Đông, Tây Đức, Đài loan, lục địa…).
Sau đây là bài viết của tôi từ nhiều năm trước, nói về việc “kế thừa”.
Hoàng Sa và Trường Sa : Vấn đề kế thừa Việt Nam Cộng Hòa.
Trong hồ sơ Hoàng Sa, khó khăn nhất của VN hôm nay là chứng minh được quốc gia có tên gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của thực thế Việt Nam Cộng Hòa.
Bà Monique Chemillier-Gendreau[i] dựa lên thuyết « liên tục quốc gia » để cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để có quyền chủ quyền tại HS và TS :
“Le Vietnam aujourd’hui unifié (par la victoire du Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique territoriale renforce une cuccession aux droits et actions du Sud-Vietman, seul compétent d’une point de vue géographique.”
Tạm dịch : Nước Việt Nam thống nhất hôm nay (do chiến thắng của miền Bắc) phải lựa chọn bên nào để kế thừa (danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa). Lôgíc về mặt lãnh thổ củng cố sự kế thừa về các quyền và những hành vi của Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý.
Chủ quyền của VN tại HS và TS liên tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn chuyển sang triều Tây Sơn, sang triều đại nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước bảo hộ Pháp. Năm 1954, quốc gia VN bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, hai quần đảo HS và TS do VNCH quản lý. Nhà nước VNCH, tiếp nối nhà nước bảo hộ Pháp, quản lý liên tục và khai thác HS và TS.
Tức là lập luận của bà học giả M. Chemiller-Gendreau « Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý » là phù hợp với thực tế lịch sử và pháp lý.
Một câu hỏi (chính đáng) đã đặt ra, từ những lần bàn luận trên các diễn đàn internet : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người ta ?
Từ « giết chết » sử dụng ở đây có thể không phù hợp, nhưng thực tế lịch sử giữa hai thực thể VNCH và VNDCCH, từ năm 1959 đến 1975, đã thể hiện trong chiều hướng như vậy.
Thủ tục « kế thừa » có thể thể hiện (một cách đơn giản như bà học giả M. Chemiller-Gendreau đề nghị) trong một hoàn cảnh lịch sử thế này hay không ?
Nội dung Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 của ông Hồ Chí Minh :
“Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.”
Tuyên bố này, trên quan điểm pháp lý, cắt đứt mọi quan hệ giữa nhà nước VNDCCH và nhà nước bảo hộ Pháp. Nhà nước VNDCCH là chính phủ của một Việt Nam mới (không quan hệ gì với nhà nước vương quyền cũng như các nhà nước đã từng hiện hữu trên đất nước VN, đồng thời hay trước đó.)
Nội dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :
« Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta… »
Bản báo cáo này khẳng định nhà nước VNDCCH là chính phủ của một nước VN mới, đã « xóa bỏ thực dân phong kiến ».
Khi đã « xóa bỏ » thì không có gì còn vướng mắc. Không hiện hữu vấn đề « kế thừa » giữa mình và cái mình đã xóa bỏ, mà chỉ có việc « chiếm hữu » (hay chiếm đoạt) mà thôi.
Nội dung hiến pháp 1959 :
« Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. »
Phía VNDCCH luôn gọi VNCH là « bọn tay sai », là « giặc », là « ngụy ». « Ngụy » tức là giả. Khi anh cho rằng bọn đó là « giả », không phải là một thực thể chính trị, thì làm sao hiện hữu vấn đề kế thừa ? Anh không thể kế thừa một cái gì đó không có thật (ngụy).
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960 :
« Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước… »
Nghị quyết khẳng định chính quyền miền Nam (VNCH) là « bọn tay sai ».
Câu nói hiện nay trên môi những người lãnh đạo VN (và các học giả VN) : « nhà nước CXHCNVN đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền HS và TS từ nhà nước VNCH », hay nại việc Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố này kia tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nghe thật là lố bịch và chướng tai. Đâu có ai kế thừa cái gọi là « danh nghĩa chủ quyền » từ « bọn tay sai » bao giờ ? Đã là « tay sai » thì chỉ có « tuân lệnh chủ » chứ làm sao có vấn đề « danh nghĩa » ở đây ?
Chiến thắng 30-4-1975, không hề hiện hữu một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa VNCH với VNDCCH hay với CPLT MTGPMN.
Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa ?
Theo ý kiến của bà học giả M. Chemiller-Gendreau, sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, nước CHXHCNVN có thể « kế thừa » VNCH để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS.
Nhưng với một thực tế lịch sử và pháp lý như vậy, ta có thể thuyết phục được ai ? Chưa chắc được với một người dân thường huống chi trước những Thẩm phán giàu kinh nghiệm trước một Tòa án, hay trước những học giả dư tài hùng biện của TQ.
Một số học giả VN (thuộc nhóm Quĩ nghiên cứu Biển đông và TS Phạm quang Tuấn) biện luận rằng « theo luật quốc tế, chủ quyền lãnh thổ thì thuộc về quốc gia » và chủ trương có hai quốc gia VNCH và VNDCCH trong thời kỳ 1954-1975. Mục đích nhằm chứng minh CHXNCHVN đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN.
Lập luận này đã sai từ những điều rất cơ bản :
1/ Không có « luật quốc tế » nào (còn hiệu lực) qui định « chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia » hết cả. Lý thuyết của các học giả này là lý thuyết « territoire-objet », hiện hữu ở thời kỳ phong kiến, lãnh thổ thuộc về vua chúa. Quan niệm này chấm dứt cùng lúc với chế độ phong kiến quân quyền. Đây là một quan niệm được các nhà Luật học đương thời phê bình là « sai lầm »[ii].
2/ Không hề hiện hữu « hai quốc gia » VNDCCH và VNCH trong thời kỳ 1954-1975.
3/ CHXHCNVN không thể « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền HS (và TS) từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN. Lập luận này dựa theo thuyết « Reversion » không hề được công pháp quốc tế nhìn nhận (Xem tranh chấp Erythré và Yemen (2) về chủ quyền các đảo ở Hồng Hải).
Khi « lý thuyết » lập nên từ những lập luận nền tảng (đã sai), thì lý thuyết đó không có một giá trị hữu dụng nào.
Cũng những học giả này (Phạm Quang Tuấn và thuộc nhóm Quĩ nghiên cứu Biển Đông) lập luận trên nền tảng công ước Montévidéo, cho rằng VNCH là một « quốc gia » :
“VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state), gồm : (a) một dân số ổn định ; (b) một lãnh thổ rõ rệt ; (c) có một chính quyền ; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác.”
Tác giả không giải thích bằng cách nào danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa từ « quốc gia » VNCH chuyển sang « quốc gia » CHXHCNVN hôm nay.
Nếu các thực thể VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia », thì mối tương quan giữa VNDCCH, VNCH và Trung Quốc là tương quan giữa « quốc gia » với « quốc gia ». TQ chiếm HS từ tay VNCH, được sự « im lặng đồng tình » của quốc gia VNDCCH vào tháng giêng năm 1974, cũng như được sự « đồng thuận » của « quốc gia » này trong quá khứ thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (cùng với nhiều hành vi mặc định khác).
TQ đã chiếm HS trên tay VNCH.
Quí vị thử giải thích làm sao VNCH có thể chuyển cho CHXHCNVN cái đã bị mất ?
Các học giả này vịn vào Công ước Montévidéo năm 1933 để cố chứng minh VNCH là “một quốc gia”. Điều này hoàn toàn sai!
Thực ra là một công ước Montévidéo năm 1933 được ký kết giữa các xứ thuộc Châu Mỹ, lâu ngày trở thành « tập quán » của Luật quốc tế. Nhưng nội dung của nó không đủ để diễn đạt thế nào là một « quốc gia » sau Thế chiến II cũng như trong khung cảnh « Toàn cầu hóa » hiện thời.
Đâu phải hễ có lãnh thổ, dân chúng, một chính quyền và chính quyền này có khả năng giao dịch với các quốc gia thì là « quốc gia » ?
Trường hợp Palestine, Đài Loan… họ cũng có lãnh thổ, dân chúng, có chính quyền và chính quyền này có khả năng « giao dịch » với các nước trên thế giới, sao họ không là « quốc gia » ?
Các tổ chức « ONG », hay các « tập đoàn kinh tế » hiện nay, họ có tư cách pháp nhân trong « Luật quốc tế », có « quan hệ » với các quốc gia, nhưng họ đâu phải là quốc gia ?
Vì thế, Công pháp quốc tế hôm nay bổ túc thêm hai đặc tính « độc lập – indépendant » và « có chủ quyền – souveraineté » vào định nghĩa (điều kiện thành lập) « Quốc gia » theo công ước Montévidéo.
Hai thực thể VNDCCH và VNCH được khai sinh theo Hiệp định Genève 1954 và hiệp định này được quốc tế công nhận (và bảo trợ).
Trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất (được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973). Điều này thể hiện lên thực tế.
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Các học giả này nói rằng VNDCCH và VNCH là « hai quốc gia độc lập, có chủ quyền ».
Không ai đưa được bằng chứng cho biết quốc gia nào (trên thế giới này) đã cùng lúc công nhận hai quốc gia VNCH và VNDCCH ?
Điều tệ hại, nhân tôi viết về hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, quí vị học giả này cho rằng “công hàm Phạm Văn Đồng là vũ khí tuyên truyền của TQ”. Quí vị Phạm Quang Tuấn cùng nhóm học giả Quĩ Nghiên cứu Biển Đông “chụp mũ” tôi là người “tuyên truyền” cho TQ.
Những người này bênh vực hành vi “bán nước” của ông Hồ, ông Đồng đến mức mù quáng. Công hàm này có hiệu lực pháp lý hay không là phải phân tích bằng tinh thần khách quan khoa học, dưới ánh sáng của quốc tế công pháp, chớ không phải bằng phương cách “cả vú lấp miệng em”, thằng nào cãi hay là thằng đó nói đúng.
Trở lại vấn đề kế thừa VNCH.
Nhiều người có ý kiến : chỉ cần đổi tên nước, đổi quốc kỳ, quốc ca… để trở thành VNCH thì mọi việc đều ổn thỏa.
Theo tôi thì chưa chắc. Khi anh gọi người ta là « ngụy », là « giặc », là « bọn tay sai »… thì anh làm sao kế thừa ?
Bà Joële Nguyên Duy-Tân qua bài « La représentation du VietNam dans les institutions spécialisées »[iii] có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l’existence d’un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Vì thế, việc đổi tên nước, đổi cờ quạt này kia… là không thuyết phục.
Tôi đã đề nghị giải pháp « kế thừa » thông qua chính sách « hòa giải dân tộc » sau đây. Biện pháp là :
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ : Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân ; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.
Thể thức này nhằm đoạn tuyệt với di sản của VNDCCH, tức đoạn tuyệt với công hàm 1958 cùng với những thái độ có thể khiến VN bị vướng Estoppel hay Acquiescement.
Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật « hòa giải dân tộc », trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng « ngụy » đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án « xét lại chống đảng » v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệc cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…
Vấn đề « đền bồi » ở đây, trước tình hình đất nước, có thể chỉ là một hình thức nào đó, « tượng trưng » mà thôi. Để tránh những xáo trộn sâu xa trong xã hội.
Thể thức này nhằm « kế thừa » danh nghĩa của VNCH.
Trên căn bản như thế VN đương nhiên có chủ quyền tại HS và TS, như VNCH, từ đó mới có cơ sở giải quyết các tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế, phân định hải phận biển Đông với các nước khác.
Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và hải phận của tổ tiên để lại.
(1) http://www.viet-studies.info/…/LongHuyTuanDoan_CongHamPhamV…
(2) http://www.persee.fr/…/ar…/afdi_0066-3085_1998_num_44_1_3519
(3) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/ve-bai-viet-gia-tri-pha…
(4) http://www.diendan.org/viet-nam/viet-nam-lam-gi-bay-gio
(5) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/cong-ham-1958-mot-van-e…
(6) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/thu-xet-vai-lap-luan-ph…
(7) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/thu-mo-kinh-goi-thu-tuo…
[i] Monique Chemillier-Gendreau, « La Souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys », nxb Harmattan, ISBN 2-7384-4061-4, tr 123.
[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet – Doit International Public, L.G.D.J, 8e Edition, tr 456.
[iii] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/…/ar…/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996