CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—–***—–
Đà Nẵng, ngày 27 tháng 9 năm 2025
BẢN LUẬN CHỨNG BÀO CHỮA
cho bị cáo Trịnh Bá Phương trong vụ án: Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN
Kính thưa Hội đồng xét xử sơ thẩm!
Kính thưa đại diện VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa!
Trước khi thực hiện việc bào chữa cho bị cáo, chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn tới Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa Đinh Tấn Long, thẩm phán Bùi Trọng Danh (Phó Chánh tòa hình sự) cùng các cán bộ, thư ký của TAND TP Đà Nẵng đã tích cực hỗ trợ chúng tôi để có thể nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục gặp bị cáo tại Trại giam An Điềm.
Chúng tôi thực hiện việc bào chữa cho bị cáo, không xuất phát từ việc đồng thuận hay không với bất kỳ quan điểm chính trị nào, mà chỉ bảo vệ với mục đích kiểm tra sự chính xác nghiêm ngặt tối đa của luật pháp.
Thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có được, cùng phần xét hỏi công khai tại phiên tòa ngày hôm nay (27/09/2025), mặc dù trước một số yêu cầu về thủ tục chưa được đáp ứng nghiêm ngặt về thành phần tham gia tố tụng quan trọng (như giám định viên), chúng tôi vẫn nỗ lực trình bày toàn diện quan điểm bào chữa cho bị cáo như sau đây.
I. VI PHẠM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG: QUYỀN TIẾP CẬN HỒ SƠ VỤ ÁN CỦA BỊ CÁO VÀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ CÔNG BẰNG CHƯA ĐƯỢC ĐẢM BẢO
1.1. Vấn đề tiếp cận hồ sơ của bị can chưa được đáp ứng
Theo hồ sơ vụ án và lời trình bày của bị cáo Trịnh Bá Phương, ngày 29/7/2025 trong buổi làm việc với Điều tra viên và đại diện VKSND thành phố Đà Nẵng, bị can đã có đề nghị được tiếp cận hồ sơ vụ án để thực hiện quyền tự bào chữa cho mình (BL175) trên cơ sở Điều 60 BLTTHS. Ngày 01/8/2025, thông qua Trại giam, bị can Phương tiếp tục gửi đơn với cùng nội dung như trên tới VKSND thành phố Đà Nẵng. Nhưng cho tới thời điểm ngày 12/9/2025, khi chúng tôi gặp và làm việc với bị cáo thì được trao đổi rằng đề nghị này của bị cáo Phương vẫn chưa được giải quyết.
Về nguyên tắc, các quyền này không được trì hoãn, ngay cả khi đã kết thúc giai đoạn thực hiện quyền mà các quyền này chưa được đáp ứng. Cần thấy rằng, trong vụ án này, bị cáo đã có đề nghị, yêu cầu tiếp cận và đọc hồ sơ từ giai đoạn truy tố, nhưng yêu cầu này đã không được VKS tiến hành một cách nhanh chóng trong vai trò của mình, dù đủ thời gian để thực hiện. Như vậy, dù bị can yêu cầu từ ngày 29/7/2025, nhưng tới ngày 07/8/2025, đại diện VKS mới trả lời cho bị cáo về việc hồ sơ đã được chuyển giao cho Toà án, điều này rõ ràng thể hiện sự chậm trễ không chính đáng xét trong khoảng thời gian mà bị cáo đã đưa ra yêu cầu một cách chính thức cho đại diện VKS vào giai đoạn truy tố.
Quyền tiếp cận hồ sơ vụ án là một trong những quyền cơ bản và quan trọng được quy định tại BLTTHS (Điều 60.2.i) cùng nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật khác. Và quyền này được đảm bảo thực hiện kể từ khi kết thúc điều tra cho đến trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 2.3 TT liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP).
Theo đó, khi bắt đầu kết thúc hoạt động điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn được phân công giải quyết vụ án khi giao bản Kết luận điều tra hoặc Cáo trạng cho bị can thì đồng thời cần tiếp tục thông báo, giải thích cho bị can được biết về quyền được đọc, ghi chép bản sao tài liệu… liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa của họ khi họ có yêu cầu (Điều 4.1 Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP). Đối với những bị can bị tạm giam thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm cấp bút và giấy viết hoặc phương tiện cần thiết để bị can có thể ghi chép phục vụ cho việc nghiên cứu tài liệu, hồ sơ của vụ án (Điều 7.1 Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP).
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, vụ án đã trải qua các giai đoạn tố tụng quan trọng bao gồm điều tra và truy tố, và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo Trịnh Bá Phương, mặc dù có yêu cầu về việc được tiếp cận, đọc và ghi chép hồ sơ từ trước, vẫn chưa được thực hiện quyền năng cơ bản này. Pháp luật đã quy định người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định (Điều 16 BLTTHS) để từ đó bảo toàn nguyên tắc cốt lõi về xét xử công bằng trong hoạt động tư pháp – quy định mà Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp Quốc 1966 (VN trở thành thành viên năm 1982). Do đó, việc bị cáo Trịnh Bá Phương chưa được thực hiện quyền tiếp cận hồ sơ vụ án là vi phạm những nguyên tắc căn bản và nền tảng của ngay BLTTHS, và vi phạm vào quyền cơ bản của bị can/bị cáo trong khi chuẩn mực tố tụng yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện mọi biện pháp để bảo đảm chúng.
1.2. Về quyền bào chữa và sự tôn trọng đối với nghề luật sư
Trong vụ án này, do tính chất đặc thù của loại tội danh mà BLHS quy định, dẫn đến một điều luật tương ứng trong BLTTHS đã giới hạn và tước bỏ quyền được bào chữa của bị can tại giai đoạn điều tra – Điều 74. Hiến pháp và BLHS đều yêu cầu không phân biệt mọi yếu tố con người và chính trị, các quyền cơ bản phải được duy trì và bảo đảm trong mọi trường hợp. Không phân biệt mọi loại tội, nguyên tắc xét xử công bằng bao gồm trong đó việc đảm bảo toàn bộ và đầy đủ các quyền mà tại đó người bị buộc tội không bị ngăn trở thực hiện hoặc được bảo vệ chính đáng với bất kể hình thức nào, đặc biệt không dựa trên loại tội mà người này vi phạm. Nguyên tắc xét xử công bằng được hiểu rằng một người bị cáo buộc phải được thực hiện thủ tục tố tụng qua một tiến trình công bằng và khách quan mà bất kỳ người nào cũng đều được đảm bảo như nhau mà không phân biệt loại tội mà họ bị truy cứu. Điều 74 BLTTHS là một điều luật nghiễm nhiên tạo nên sự bất cập và đe dọa từ bản chất về tính công bằng trong xét xử khi loại trừ luật sư (người bào chữa) tham gia tố tụng bảo vệ bị can tại giai đoạn điều tra – quy định mà LHQ đã khuyến nghị cần phải bãi bỏ để phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà chính VN đã tham gia làm thành viên từ rất sớm.
Hơn nữa, trong hồ sơ thể hiện, tại BL145, CQĐT đã nại ra lý do rằng “…các đối tượng phản động khác, trong đó có số luật sư bất đồng chính kiến lợi dụng việc CA tỉnh Quảng Nam khởi tố bị can đối với Trịnh Bá Phương…” để đề nghị VKS tỉnh Quảng Nam không cho luật sư tham gia tại giai đoạn điều tra. Điều này rõ ràng thể hiện một thiên kiến tiêu cực về nghề nghiệp luật sư và đồng thời tác động trực tiếp vào hoạt động tố tụng của luật sư tham gia bào chữa cho Phương từ chính CQĐT, trong khi không có căn cứ pháp lý nào về vấn đề quan điểm biểu đạt trong từ chối hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Bên cạnh đó, trước đó, ĐTV đưa ra yêu cầu luật sư cung cấp tài liệu cá nhân để thực hiện các hoạt động không đảm bảo chính xác theo căn cứ của bộ luật tố tụng (BL143), chúng tôi đã có văn bản phúc đáp và đề nghị trong quá trình tiến hành tố tụng các vụ án, CQĐT không lặp lại các yêu cầu vượt quá cơ sở pháp lý của BLTTHS đã ấn định riêng cho chức danh luật sư để đảm bảo các hoạt động tố tụng được diễn ra chuẩn mực và thông suốt. Với hai ứng xử như vậy, cho thấy quyền hành nghề của luật sư đã vô tình bị cản trở, trì hoãn, bị nhìn nhận thiếu tích cực trong vai trò bổ trợ (gìn giữ) công lý và không được tuân thủ về các điều kiện mà vốn cơ quan tiến hành tố tụng luôn phải thông hiểu cặn kẽ và nhất quán trong trách vụ.
Thêm vào đó, với vụ án quy định tại Điều 117, BLTTHS ấn định rằng luật sư được tham gia bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra, và thường CQĐT gửi thông báo có trích dẫn văn bản của Viện trưởng VKSND cùng cấp về việc từ chối đó. Quy định này được xác định tức khắc một hệ quả của một quyền quan trọng đối với quyền bào chữa của bị cáo và quyền hành nghề của luật sư, khi chúng ấn định thời điểm tham gia tố tụng của luật sư cũng đồng thời ràng buộc trách nhiệm thông báo việc kết thúc điều tra cũng như văn bản tố tụng thể hiện hoạt động này đã kết thúc, như Bản KLĐT và hoặc văn bản chuyển giao hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiếp theo thụ lý giải quyết – các văn bản này cần được các cơ quan tố tụng tống đạt/thông báo tới luật sư để luật sư có thể kịp thời tham gia tố tụng theo đúng tinh thần điều luật đã ấn định. Tuy nhiên, tinh thần này đến nay chưa được triệt để thực hiện bởi các cơ quan tố tụng, nhờ đó, chúng tôi kính đề nghị về việc cần nhìn nhận và đảm bảo thực hiện hành động pháp lý này trên thực tế, chúng giúp cho nguyên tắc pháp chế (pháp quyền) trở nên toàn diện và được thống nhất.
II. CHƯA CÓ ĐỦ CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH TRỊNH BÁ PHƯƠNG LÀ NGƯỜI LÀM/TẠO LẬP RA TÀI LIỆU ĐÃ ĐƯỢC THU GIỮ
2.1. Không có Kết luận giám định về dòng chữ được viết trên tờ giấy A3 với chữ viết của bị cáo Trịnh Bá Phương là do cùng một người viết ra
Hai cơ quan giám định chuyên môn, bao gồm Phòng Kỹ thuật hình sự CA tỉnh Quảng Nam (cũ) và Phân viện Khoa học Hình sự tại TP Đà Nẵng khi nhận được yêu cầu giám định của Cơ quan ANĐT tỉnh Quảng Nam (nay là Cơ quan ANĐT TP Đà Nẵng) về nội dung: chữ viết tại tờ giấy A3 (tài liệu thu giữ) và chữ viết của Trịnh Bá Phương tại mẫu so sánh có phải do cùng một người viết ra không, đều có văn bản từ chối giám định vì các tài liệu mẫu so sánh không đảm bảo điều kiện để giám định (BL115; BL111; BL109). Như vậy, không có cơ sở khoa học và bằng chứng pháp lý nào để cáo buộc về hành vi “làm/tạo lập” ra vật phẩm là đối tượng của hành vi bị truy cứu. Do đó, không thể kết luận và việc loại bỏ cáo buộc hành vi “LÀM” đối với bị cáo Trịnh Bá Phương trở thành yêu cầu cơ bản để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội mà bị cáo được hưởng, cũng như bất kỳ ai bị đặt vào việc xét xử cũng sẽ được thụ hưởng quyền này.
2.2. Không có bất kỳ người nào tại Trại giam An Điềm chứng kiến (nhìn thấy hoặc biết hoặc có thông tin) việc bị cáo Phương là người làm/tạo lập ra dòng chữ trên tờ giấy A3 đã thu giữ ngày 18/11/2024
Thêm vào đó, những người làm chứng được triệu tập tới phiên tòa (Nguyễn Xuân Tăng, Nguyễn Văn Thuận, Phạm Văn Điệp…) đều chỉ là người chứng kiến sự việc thu giữ tài liệu, đồ vật vào ngày xảy ra sự việc 18/11/2024 mà không hề biết về việc bị cáo Phương có phải là người trực tiếp viết dòng chữ trên tờ giấy A3 và dán vào tờ báo Kinh tế Sài Gòn hay không (BL11, 12, 80, 82). Đồng thời, bút và giấy có phải các vật được bị cáo sử dụng hoặc ít nhất có thể tìm thấy sự liên kết trong việc đã sở hữu chúng hay không. Vấn đề này tiếp tục được hỗ trợ thêm về tiêu chuẩn phải chứng minh ngay tiếp sau đây.
2.3. Chưa thực hiện việc lấy dấu vân tay của Trịnh Bá Phương trên các tài liệu đồ vật đã tiến hành thu giữ: hoạt động quan trọng và thiết yếu đã bị bỏ qua
Theo như hồ sơ vụ án, ngày 18/11/2024, cán bộ Trại giam An Điềm đã thu giữ được đồ vật khác ngoài tài liệu là tờ giấy A3, bao gồm 01 bút lông mực màu đen nhãn hiệu “PERMANENT MARKER”, 01 cái dùi tự chế cán gỗ màu nâu. Để có cơ sở cho nhận định bị cáo có phải là người viết dòng chữ trên tờ giấy A3 hay không, một điều kiện bắt buộc đặt ra rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết phải tiến hành thu thập và kiểm tra dấu vân tay của bị cáo xem chúng còn lưu giữ lại trên bề mặt của các tài liệu, đồ vật đã thu giữ hay không. Tuy nhiên, theo hồ sơ vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ qua công việc quan trọng này, nhưng lại vẫn đưa ra một nhận định thiếu cơ sở và khách quan rằng: vì ngày 4/10/2024 khi bị cáo chuyển vào buồng giam I.3 ở một mình, buồng giam đã được kiểm tra và không phát hiện vật dụng, tư trang gì; giấy ca-rô khổ A3 là Trịnh Bá Phương đăng ký mua tại căng tin vào ngày 23/8/2024 bằng tiền lưu ký (BL122) nên có căn cứ xác định tờ giấy khổ A3 một mặt dán vào tờ báo Kinh tế Sài Gòn, một mặt có ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”, hẳn nhiên, phải là sản phẩm của Trịnh Bá Phương tạo ra, chứ không phải của phạm nhân khác hay đã có trong buồng giam I.3 từ trước.
Nhận định này đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13 BLTTHS và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 BLTTHS, bởi lẽ:
– Không có tài liệu, bằng chứng chứng minh việc mua giấy A3: Trong hồ sơ không cho thấy bất cứ tài liệu kèm theo Biên bản làm việc nào giữa ĐTV và Trại giam An Điềm về việc vào ngày 23/8/2024 bị cáo đã mua giấy A3 ở căng tin (ví dụ: bản ảnh chụp/bản sao từ sổ theo dõi mua đồ tại căng tin của Trại giam);
– Khoảng thời gian đủ dài và các điểm mù của các sự kiện bao quanh để không thể xác định nguồn tài liệu tạo nên vật phẩm: Bị cáo Trịnh Bá Phương, giả dụ, dù mua giấy ca-rô A3 hay không, về bằng chứng thực tế, cũng chưa đủ cơ sở để khẳng định tờ giấy A3 đã thu giữ là của bị cáo. Vì từ ngày 23/8/2024 (ngày mua giấy theo hồ sơ vụ án) đến ngày 04/10/2024 (ngày bị cáo chuyển tới buồng giam mới I.3) không có tài liệu chứng cứ thể hiện Trịnh Bá Phương có mang theo các vật dụng gì, có bao gồm giấy A3 hay không. Do đó, từ ngày 04/10/2024 đến ngày 18/11/2024 khi kiểm tra buồng giam và phát hiện sự việc càng không có cơ sở để khẳng định tờ giấy A3 thu giữ là của Trịnh Bá Phương.
Như vậy, chỉ với việc làm rõ tờ giấy A3 (chưa bàn tới dòng chữ được viết trên tờ giấy) có phải là của bị cáo hay không, vốn đã chưa đủ cơ sở và căn cứ để khẳng định. Do đó, việc buộc tội bị cáo lén lút làm và cất giấu 01 (một) tờ giấy khổ A3, một mặt dán tờ báo Kinh tế Sài Gòn, một mặt có ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” như tại KLĐT và Cáo trạng, cho thấy chưa tuân thủ về chuẩn mực khách quan, thiếu vững chắc về căn cứ và chưa đầy đủ sức mạnh về thuộc tính bằng chứng trong buộc tội.
Từ những phân tích chi tiết và cụ thể nêu trên có thể thấy rằng chưa đủ cơ sở và căn cứ để cho rằng Trịnh Bá Phương là người làm ra các tài liệu mà Trại giam An Điềm phát hiện và thu giữ ngày 18/11/2024, bởi lẽ rằng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, CQTHTT phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ các chứng cứ buộc tội và vô tội (Điều 15 BLTTHS). Nếu không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự thủ tục thì phải kết luận người bị buộc tội không có tội (Điều 13 BLTTHS).
2.4. Tồn tại sự khác nhau/không đồng nhất về dòng chữ trên tài liệu cáo buộc Trịnh Bá Phương giữa các văn bản tố tụng
Tài liệu được sử dụng cho tiến trình giám định với các Bút lục: BL1, BL17-22, BL24, BL31, BL95-97, BL100, BL104-105, BL112-114, tại đây thể hiện dòng chữ được ghi nhận trong các văn bản tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng không đảm bảo rằng chúng đồng nhất hay giống nguyên vẹn toàn bộ các chữ được viết trong KLĐT và Cáo trạng, cùng một số văn bản khác – giữa hai bản vật chứng thể hiện thiếu một chữ “ĐẢNG” (khi không có từ này, một danh từ chủ thể sẽ biến thành một danh từ đối tượng/khái niệm). Như vậy, rõ ràng với hệ thống dày đặc các văn bản ghi nhận sự vênh lệch về tính chân thực của chứng cứ, tài liệu vốn được coi là duy nhất để buộc tội bị cáo, đã bất ngờ tồn tại hai phiên bản khác nhau. Trong vụ án mà từng từ (chữ, hay ký tự) đều được giám định và bị xem xét dưới góc độ dùng để buộc tội một người, việc thiếu một từ (và được xem là đặc biệt quan trọng) trở nên một vấn đề pháp lý đáng quan tâm về tính chính xác và hợp pháp của nó. Câu hỏi đặt ra cho xung đột khách quan này cần được trả lời theo nghĩa: tài liệu giữa trưng cầu giám định và tài liệu cho kết quả giám định không đảm bảo nguyên vẹn thuộc tính, việc giám định hẳn nhiên không còn đáng tin cậy và cần phải loại trừ khỏi tổ hợp các bằng chứng.
III. CÁC NỘI DUNG TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH DÒNG CHỮ TRÊN TÀI LIỆU THU GIỮ CHƯA TUÂN THỦ CƠ BẢN CÁC YÊU CẦU PHÁP LÝ
Bên cạnh những phân tích nêu trên về việc chưa đủ căn cứ và cơ sở để khẳng định rằng Trịnh Bá Phương là người làm/tạo lập ra tờ giấy A3 với dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”, chúng tôi tiếp tục đi đến việc chứng minh rằng về trình tự, thủ tục đối với việc giám định nội dung dòng chữ nêu trên để buộc tội bị cáo cũng có nhiều dấu hiệu vi phạm mang tính nền tảng.
A. VỀ TỐ TỤNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC
3.1. Thực hiện giám định khi không đảm bảo về thẩm quyền giám định; có sự nhầm lẫn cơ bản về thẩm quyền giám định
Theo quy định tại Điều 3.1, Điều 52.2 Luật An toàn thông tin mạng; Điều 2.15 Thông tư 11/2022/TT-BTTTT ngày 29/7/2022; Điều 39.1 Nghị định 72/2013/NĐ-CP; Điều 2.12 Thông tư liên tịch 06/2016/TTLT-BTTTT-BNV; Điều 1, Đều 2.15 Quyết định số 14/2023/QĐ-UBND của UBND TP.Đà Nẵng, Sở TT&TT có nhiệm vụ và quyền hạn về “an toàn thông tin” mà không có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc giám định nội dung của tài liệu (an ninh thông tin). Như vậy, nguồn chứng cứ này không đảm bảo thẩm quyền chuyên trách (và kéo theo vô hiệu về giá trị pháp lý) theo quy định tại Điều 87.2 của BLTTHS. HĐXX cần bác bỏ bằng chứng này.
3.2. Đưa ra các kết luận định tội khi không có căn cứ cụ thể và chính xác
Trong toàn bộ quá trình giám định, sau đó đi đến các kết luận quan trọng tại bản KLGĐ của tập thể (02) các giám định viên Sở TT&TT TP.Đà Nẵng, tại đây đều đã không đưa ra hoặc không dựa trên bất kỳ tiêu chuẩn hay quy chuẩn nào trong khi pháp luật yêu cầu buộc phải có.
Cụ thể: Tại Bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định (BL100-101) có thể hiện quá trình giám định (mục 3), các GĐV tiến hành xem xét, đánh giá, giám định tư pháp đối với mẫu cần giám định và đưa ra ý kiến rằng:
– Có 01 (một) nội dung biểu thị sự chống đối kịch liệt với tinh thần muốn đánh đổ TAND Việt Nam, xuyên tạc, vu khống TAND Việt Nam – “ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”;
– Có 01 (một) nội dung biểu thị sự chống đối kịch liệt với tinh thần muốn đánh đổ tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc, vu khống tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam – “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN”.
Trong bản KLGĐ ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP.Đà Nẵng có nêu phương pháp thực hiện, tại đó ghi rõ rằng dòng chữ trên tờ giấy A3 thu giữ tại buồng giam của bị cáo có nội dung: “châm biếm, đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc, vu khống chính quyền, làm ảnh hưởng đến uy tín cơ quan, tổ chức; gây hoang mang, lo lắng làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với công cuộc xây dựng CNXH tại Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhà nước CHXHCN Việt Nam” (BL98-99; BL102-103).
Như vậy, trong cả hai tài liệu, Bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định và KLGĐ ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP.Đà Nẵng nêu trên, các GĐV chỉ thuần túy liệt kê các kết luận mà không có bất kỳ căn cứ nào được viện dẫn để đối chiếu, phân tích và đánh giá với mẫu cần giám định, thay vào đó, nhận thức và ý chí chủ quan của các GĐV được mặc nhiên đưa ra và tự thừa nhận như tiêu chuẩn để kết tội. Mặc dù tại bản KLGĐ có nêu phương pháp phân tích, đánh giá và đối chiếu với các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành, nhưng tuyệt nhiên trong đó không chỉ rõ cơ sở tham chiếu trong đánh giá dựa trên tinh thần của điều khoản, điểm hay điều luật, quy chuẩn nào và tại văn bản nào – chúng ta không thể xác định tính cách các nhân vật nếu chỉ đọc tựa đề của một cuốn sách. Các GĐV tự đặt ra tính chân lý nghiễm nhiên của chính các kết luận của mình, ngay cả vấn đề điều kiện chuyên môn bắt buộc cũng không được tham chiếu dưới bất kể hình thức nào, trong khi đó các kết luận này cho thấy hai dòng chữ được tổng hợp với sự xâm phạm đồng thời và rộng khắp các cấu thành tại điểm a, b của điều luật buộc tội. Luật giám định yêu cầu nếu việc giám định thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, buộc các giám định viên phải đảm bảo thành phần theo từng lĩnh vực chuyên môn và phải từ chối giám định một khi vượt ngoài yếu tố chuyên môn của họ – quay trở lại KLGĐ, chúng cho thấy các phạm vi được mở rộng trong nhiều vấn đề, bởi các dòng chữ này hoàn toàn mang tính tổng quát bao trùm lên các địa hạt khác nhau. Do đó, với hai GĐV chỉ đáp ứng phẩm chất về thông tin truyền thông, có đủ khả năng đảm nhận việc giám định mà không gặp trở ngại về tính xác đáng của các kết luận của họ? Và nếu không có cơ sở chuẩn tắc làm đối sánh, bất kỳ một người nào có thẩm quyền khi được yêu cầu, sẽ chỉ có thể đưa ra các kết luận theo suy diễn chủ quan mà không có cách nào để chắc chắn sự giám định đó đại diện cho tính chân thực lẫn khách quan đã được định hình và hệ thống hóa từ trong bản chất của hoạt động này.
Thiếu sót nêu trên trong quá trình giám định của các giám định viên không chỉ vi phạm nguyên tắc chung về hoạt động giám định tư pháp (Điều 3.1 Luật Giám định tư pháp 2012, sửa đổi 2021) mà còn vi phạm quy định về giám định tư pháp trong chính lĩnh vực thông tin và truyền thông với tư cách chuyên môn – khi tại Điều 10.1 Thông tư 24/2013/TT-BTTTT (thời điểm hiện tại được thay thế bởi TT 25/2024/TT-BTTTT ngày 31/12/2024) đã quy định một cách cụ thể rằng: hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông phải được thực hiện dựa trên quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, bao gồm Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông).
Như vậy, chúng tôi giả định rằng Sở TT&TT TP.Đà Nẵng có thẩm quyền giám định nội dung của tài liệu (an ninh thông tin) thì bản KLGĐ ngày 16/01/2025 của cơ quan này cũng không được coi là nguồn chứng cứ để buộc tội bị cáo Trịnh Bá Phương, bởi chúng không đảm bảo các tiêu chuẩn pháp lý trong chính chuẩn mực và các đòi hỏi điều kiện về chuyên môn trong giám định, trong khi họ đã không có mặt tại phiên toà để trả lời chính thức các câu hỏi về các khoảng trống trong giám định này.
3.3. Nội dung bản kết luận giám định đã kết tội thay chức năng của toà án và nhầm lẫn chức năng giám định
Như đã nhận định ngay tại phần kề trên, do bởi các GĐV đã không thực hiện dựa vào bất kỳ Tiêu chuẩn quốc gia hay Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia nào, nên thay vì đưa ra một kết luận mang tính định lượng, trong hoạt động giám định, các GĐV đã nhầm lẫn giữa giám định định mức và giám định cấu thành. Để làm rõ vấn đề pháp lý này, cần đưa ra ví dụ minh hoạ, chẳng hạn như: trong giám định thương tích sẽ đưa ra kết luận phần trăm (%) tổn hại sức khỏe cụ thể; trong vụ án về chất cấm, ta sẽ giám định hàm lượng chất cấm trong hợp chất để xác định khối lượng chất ma túy; trong vụ án thiệt hại tài sản, ta sẽ giám định về giá trị tổn thất của tài sản… Do đó, bởi nhầm lẫn chức năng giám định giữa hai cách thức và mục đích của việc giám định, các GĐV đã thực hiện kết luận giám định với nhận định mang tính kết tội bằng việc liệt kê và sử dụng chính cấu thành mặt khách quan của tội phạm được ghi trong điều luật để lấy làm tiêu chí giám định và đưa ra các kết luận của mình (điểm a, b, khoản 1, Điều 117 BLHS). Rõ ràng ở đây, các giám định viên đã thực hiện việc kết tội Trịnh Bá Phương thay cho và đi trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp này, các giám định viên đã không đảm bảo đúng mặt chức năng và phạm vi tố tụng.
Mặc dù vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng lại vẫn sử dụng kết luận của các giám định viên tại Sở TT &TT TP Đà Nẵng để buộc tội Trịnh Bá Phương là không đúng quy định pháp luật vì lẽ điều luật đã nhắc đến các khái niệm “Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “chính quyền nhân dân” nhưng tại dòng chữ viết trên giấy A3 thu giữ tại buồng giam Trịnh Bá Phương chỉ nhắc đến “Đảng CSVN” và “Tòa án CS”. Đối chiếu với toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật không hề có văn bản nào đồng nhất hoặc chỉ ra có sự tương đồng giữa các khái niệm “Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “chính quyền nhân dân” với “Đảng CSVN” và “Tòa án CS”, ngoại trừ tại Điều 4 Hiến pháp có nhắc đến nhưng lại phân định rạch ròi và rõ ràng các chủ thể bao gồm: “Đảng CSVN”, “Nhà nước CHXHCN Việt Nam” và “xã hội”. Như vậy, “Đảng CSVN” và “Nhà nước CHXHCN Việt Nam” là hai chủ thể hoàn toàn độc lập và có tư cách pháp lý khác biệt nhau. Nhưng các Giám định viên của Sở TT&TT TP Đà Nẵng và các cơ quan THTT sau này đã đồng nhất các khái niệm trên và đưa ra kết luận cho rằng Trịnh Bá Phương chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam (mặc dù quy trình, trình tự về việc thu thập chứng cứ chưa đảm bảo đúng quy định pháp luật). Kết luận này là một sự cưỡng ép về nỗ lực giải thích vượt qua khoảng trống của luật pháp về chủ thể.
3.4. Địa phương hóa việc kết tội: một đặc thù pháp lý vượt quá các thẩm quyền tố tụng và chuẩn mực tư pháp thông thường
Để đưa ra cáo buộc đối với bị cáo Trịnh Bá Phương, các cơ quan THTT đã sử dụng Kết luận giám định ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP Đà Nẵng. Bên cạnh những vi phạm về thẩm quyền và thiếu sót nghiêm trọng về phương pháp giám định nêu trên, chúng tôi còn nhận thấy rằng, một vấn đề đang tồn tại rất lâu trong các vụ án xét xử tội danh quy định tại Điều 117, khi các cơ quan THTT thường luôn sử dụng các KLGĐ của Sở TT&TT (hoặc số rất ít vụ án được Bộ TT&TT thực hiện) làm căn cứ và cơ sở cho việc buộc tội trước những phát ngôn hay các hình thức biểu đạt quan điểm của họ. Mặc cho những sai phạm còn tồn tại, thậm chí đã tạo ra một vấn đề lớn nảy sinh, đó là một cơ quan chuyên môn thuộc một cơ quan hành chính địa phương có thể đưa ra kết luận buộc tội các bị can/bị cáo. Chính một tập thể giám định viên, hoặc trong một số trường hợp là một GĐV duy nhất, của các Sở TT&TT có thể kết tội bị can/bị cáo mà việc kết luận này chính thức được coi như phiên luận tội thứ nhất và cũng là toàn diện đối với họ.
B.VỀ MẶT NỘI DUNG VÀ CÁC KHOẢNG TRỐNG TRONG CHỦ THỂ LẪN MỤC ĐÍCH
3.5. Xác định chủ thể bị xâm phạm của tội danh chưa chính xác và truy cứu một loại hành vi vượt quá sự tương xứng với sự kiện thực tế
Trong dòng chữ được viết ra, có nêu “Đảng cộng sản” là một chủ thể bị đưa vào phản kháng của bị cáo. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng, kết cấu tại điều luật 117 yêu cầu truy tố với các hành vi xâm phạm với chủ thể và khách thể thuộc phạm vi Nhà nước CHXHCNVN, mà cấu trúc về chủ thể đã được Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã ấn định, tại đó không bao hàm Đảng cộng sản Việt Nam như một chủ thể thuộc cấu trúc của điều luật, và do đó sẽ bị tác động bởi hành vi của bị cáo nếu viện dẫn Điều luật 117. Tại Điều 4 Hiến pháp đã phân định rõ hai dạng chủ thể này trong chính nó khi khẳng định rằng ĐCSVN là tổ chức lãnh đạo Nhà nước, và Điều 117 BLHS quy định các hành vi chống Nhà nước CHXHCNVN. Vấn đề này, một cách chính thức và trong bàn thảo học thuật, trên hệ thống truyền thông của nhà nước CHXHCNVN, đã đăng tải các bài viết về đúng vấn đề mà vụ án này đang tiếp tục tranh luận, rằng ĐCS có nên được đưa vào trong tác động của Điều 117 hay không, bởi hiện nay vấn đề này đang bỏ ngỏ – vấn đề này phù hợp với chính KLGĐ trong đó nêu rõ ĐCS và nhà nước CHXHCNVN là hai chủ thể độc lập về tư cách. Do vậy, không thể truy cứu một hành vi không được điều chỉnh trong một điều luật mà BLHS đã loại trừ nó, hoặc ít nhất đã không bao hàm chủ thể này trong các khía cạnh thiết kế quy phạm.
Đường dẫn bài tham luận của Giảng viên Học viện An ninh tại Tapchitoaan.vn (ngày 30/09/2020, lúc 11:02): https://tapchitoaan.vn/de-xuat-hoan-thien-quy-dinh-cua-bo…
Xét tiếp theo chuỗi đánh giá bằng chứng này, trong dòng chữ đã được giám định, một khi loại bỏ chủ thể ĐCS khỏi điều luật mà bị cáo bị cáo buộc, điều vốn rất hiển nhiên về mặt cấu thành pháp lý, chỉ còn dòng chữ “ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” – nội dung này trở thành một quan điểm độc lập, được nhìn nhận trong góc độ pháp lý mà bị cáo đang phải gánh chịu biện pháp trừng phạt của hai bản án trước đó, cho thấy một tiếng nói kêu oan (giả dụ rằng nếu được xác thực của bị cáo viết ra), rõ ràng không thể là căn cứ cho bất cứ loại suy diễn nào về việc chống lại Nhà nước CHXHCNVN, bởi tại đó, bị cáo bày tỏ về nhận thức của mình đối với các bản án mà bị cáo thấy rằng chúng không đảm bảo sự hợp pháp, điều mà bị cáo tin tưởng vào nhận định của bản thân rằng các bản án dù có hiệu lực thi hành vẫn đang là một biểu hiện của sự oan sai trong kết tội đối với chính bị cáo.
Thêm nữa, với cùng một biểu ngữ về nội dung hoàn toàn tương tự, ngày 9/9/2023, hai người gồm bị cáo Trịnh Bá Phương, tù nhân Phan Công Hải, cùng thực hiện đeo biểu ngữ với dòng chữ phản đối ĐCS để bày tỏ bất bình về việc vi phạm quy chế giam giữ tại Trại Giam An Điềm từ những người có trách nhiệm – và hai tù nhân này đều bị kỷ luật theo Quy chế của Trại giam An Điềm. Điều này một lần nữa đồng thuận và hỗ trợ mạnh mẽ cho căn cứ buộc tội trở nên thiếu cơ sở ngay trong thực tế, khi cùng một loại hành vi mà một thể nhân lại gánh chịu chế tài bằng hai hình thức khác nhau. Vì xung đột này, như đã từng thỉnh cầu tới ngài Tổng bí thư ĐCSVN, và tại phiên toà này, chúng tôi thấy rằng, ngoài vấn đề buộc tội không thực sự cần thiết với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi vốn chưa từng được biết đến sự tồn tại trước đó, việc xét xử bị cáo cũng không đảm bảo được cơ sở bằng chứng và tự mâu thuẫn với sự ứng xử pháp lý trước đó. Xét rằng, luật pháp không chỉ mang trong chúng tính chất khoan hồng và sự giáo huấn, chúng còn cần được nhất quán trong trừng phạt và giới hạn tối đa sự tuỳ nghi trong viện dẫn và giải thích. Do vậy, thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự biểu ngữ ghi dòng chữ đã được giám định, chỉ nên kỷ luật bị cáo trước các quy định Quy chế của Trại giam An Điềm trong vấn đề kiểm soát trật tự tại nơi giam giữ.
3.6. Chưa xác định mục đích “nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN” một cách rõ ràng và có căn cứ
Trong hồ sơ, không cho thấy tính cụ thể về mục đích chống Nhà nước CHXHCNVN. Các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào Bản án về tội danh Điều 117 mà bị cáo bị truy cứu năm 2021 để liên kết và phỏng chiếu gián tiếp mục đích của bị cáo trong vụ án này là một gán ghép chủ quan, mang trong nó khả năng về sự thiên kiến bất tương xứng. Không ai bị áp đặt về ý chí, quan điểm, suy nghĩ, và không ai bị truy cứu hai lần về cùng một hành vi tương ứng. Do đó, không thể sử dụng một suy diễn và dựa vào khả năng liên hệ của các sự kiện vốn rời rạc và tách biệt trở thành mục đích trong kết tội tại thời điểm và sự kiện mà nó không phản ánh. Ngay cả khi phản đối bản án sơ thẩm và phúc thẩm trước đó với nhận thức mà bị cáo cho rằng chúng xâm phạm trực tiếp vào quyền lợi chính đáng của mình, điều đó cũng không bị mở rộng và không được đánh đồng về mục đích chống Nhà nước đối với bị cáo, trong khi chính bị cáo đã và vẫn đang tiếp tục đề nghị kháng nghị hai bản án trước theo quy định luật pháp hiện hành. BLTTHS quy định các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như mọi người bị cáo buộc hoặc liên quan đều có quyền kêu oan trong bất cứ thời điểm hay giai đoạn nào, cả khi các bản án của các cấp xét xử đã có hiệu lực pháp luật, và quan điểm về sự oan sai này không bị cưỡng bức hoặc đàn áp về mặt nhận thức, do vậy, nếu bị cáo phản đối Tòa án đã từng xét xử kết án oan đối với họ bằng một dòng chữ hiển nhiên được chấp thuận về quan điểm mà không thể bị trừng phạt vì lý do bày tỏ này.
3.7. Xung đột pháp luật về các chuẩn mực quyền con người với cam kết của Công ước và các khuyến nghị quốc tế
Chúng tôi một lần nữa tin tưởng rằng, hoàn toàn chưa đủ căn cứ và cơ sở để đưa ra cáo buộc đối với Trịnh Bá Phương về hành vi “lén lút làm, tàng trữ tài liệu” là tờ giấy A3, ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”. Việc kết tội Trịnh Bá Phương dựa trên tài liệu không theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định là vi phạm những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 13, Điều 15, Điều 87), cũng đồng thời vi phạm nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp (Điều 12, Điều 14, Điều 16, Điều 25 và Điều 120). Tờ giấy trên đó ghi dòng chữ được thu giữ tại buồng giam của bị cáo chỉ đơn thuần là sự thể hiện quan điểm chính trị thuần túy mà không phải là những hành vi kích động bạo lực hoặc bạo loạn nhằm hướng đến Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc giải quyết vụ án cũng như các luận chứng của các luật sư mang cái nhìn toàn diện và khách quan, chúng tôi cũng nhấn mạnh thêm rằng, những cáo buộc đối với bị cáo trong vụ án này với duy nhất một tờ giấy ghi dòng chữ đã nêu (xin không nhắc lại tại đây), trong khung cảnh không phân biệt quan điểm và tư tưởng chính trị trong đời sống được ghi nhận minh tường trong Hiến pháp, tỏ ra phù hợp với Điều 14 và Điều 25 của Hiến pháp, đồng thời tương ứng với tiêu chuẩn đòi hỏi tại Điều 19 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và Chính trị của LHQ (viết tắt ICCPR, Việt Nam tham gia Công ước năm 1982). Tại Bình luận chung số 34 về Điều 19: Tự do quan điểm và biểu đạt, đã nhấn mạnh rằng mọi hình thức quan điểm đều được bảo vệ, bao gồm các quan điểm có bản chất chính trị bao hàm Chính phủ, các chính khách, Tòa án, các thiết chế quân đội… Việc hình sự hóa việc duy trì một quan điểm là không phù hợp với khoản 1 Điều 19 của Công ước. Việc sách nhiễu, đe dọa hay kỳ thị một người, bao gồm việc bắt, giam giữ, truy tố hay bỏ tù một người vì những lý do những quan điểm họ có thể có là vi phạm khoản 1, Điều 19. Trên cơ sở đó, chúng ta cần bảo vệ những quyền cơ bản của con người, của công dân, nếu không chỉ ra được có mối nguy hiểm hoặc sự đe dọa thực tế và ngay lập tức từ lời nói, hành vi hoặc sự thể hiện khác từ các chủ thể này tới Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thì có thể được xem là việc hạn chế quyền con người mà thiếu cơ sở pháp lý. Như vậy, có thể thấy nội hàm của Điều 117 đã không khoanh vùng phạm vi và từ đó dẫn đến những cáo buộc chưa đủ cơ sở pháp lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của công dân.
Chính bởi lẽ đó mà Liên Hợp Quốc đã đưa ra khuyến nghị rằng Việt Nam nên loại bỏ một số Điều luật, trong đó có Điều 117, Điều 331 BLHS và Điều 74 BLTTHS, vì Điều luật còn quá rộng và mơ hồ, không phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người. Ở đây, chủ thể làm/tạo lập ra dòng chữ này, giả dụ rằng nếu có thể chứng minh, nên bị áp dụng chế tài xử phạt hành chính hoặc nặng hơn và nghiêm khắc hơn thì bị điều tra, truy tố và xét xử bởi một tội danh khác, như “Tội vu khống” (Điều 156 BLHS), bởi đã vu khống các tổ chức này (Đảng CSVN và Tòa án) nếu các tổ chức này có yêu cầu truy xét. Ngay như trong chính kết luận tại KLGĐ, tại đây nêu rõ rằng “có một nội dung biểu thị sự vu khống đối với Tòa án và Đảng CS”, chúng cho thấy mục đích khác của hành vi, mà không phải nhằm mục đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam như cáo buộc của VKS.
Tại thời điểm sự việc xảy ra ngày 18/11/2024, Trịnh Bá Phương chỉ ở buồng giam một mình. Trong một không gian, khoảng không quá nhỏ hẹp, vỏn vẹn chưa đầy 10m2 xét về diện tích, không được giao tiếp với bất kỳ ai khác, hiển nhiên dòng chữ này không thể gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hoặc gây hoang mang, lo lắng làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với công cuộc xây dựng CNXH tại Việt Nam như trong KLGĐ, KLĐT và Cáo trạng đã mô tả. Việc dùng một tài liệu mà chưa đủ căn cứ xác định có phải do bị cáo làm/tạo ra hay không để cho rằng bị cáo có mục đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam là thiếu khách quan và không đủ bằng chứng pháp lý.
Với những luận chứng được phân tích cụ thể, hệ thống và dẫn chiếu đầy đủ các căn cứ pháp lý nêu trên, chúng tôi kính đề nghị tới VKSND TP.Đà Nẵng xem xét áp dụng Điều 325 BLTTHS về việc rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị cáo Trịnh Bá Phương. Trong trường hợp VKS không đồng thuận với chúng tôi về nội dung này thì chúng tôi kính đề nghị tới HĐXX xem xét áp dụng Điều 328 BLTTHS, tuyên bị cáo không có tội hoặc chuyển sang một tội danh khác phù hợp hơn (nếu HĐXX vẫn giữ quan điểm cho rằng tài liệu bị thu giữ là của bị cáo Trịnh Bá Phương), trong đó có thể áp dụng kỷ luật theo quy chế trại giam mà không tiến hành mọi hình thức trừng phạt bằng đạo luật hình sự.
Trân trọng cảm ơn sự lắng nghe từ HĐXX và đại diện VKS!
CÁC LUẬT SƯ